Suy tim độ 4 sống được bao lâu là nỗi trăn trở của nhiều gia đình có người thân bước vào giai đoạn cuối của bệnh lý tim mạch nghiêm trọng này. Bài viết sau của ECO Pharma sẽ giúp bạn hiểu rõ về tiên lượng sống, các yếu tố ảnh hưởng và hướng tiếp cận hiệu quả để nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.
Suy tim độ 4 theo phân loại của Hiệp hội Tim mạch/Trường Cao đẳng Tim mạch, Mỹ (AHA/ACC) là giai đoạn cuối của bệnh suy tim. Lúc này, tim gần như mất hoàn toàn khả năng bơm máu hiệu quả, khiến người bệnh có các biểu hiện như khó thở, mệt mỏi, phù nề nặng và thường xuyên phải nhập viện dù đã được điều trị tích cực.
Theo nghiên cứu tại Quận Olmsted (Mỹ), chỉ 0,2% người trưởng thành rơi vào giai đoạn này, song tiên lượng lại cực kỳ nghiêm trọng. Tỷ lệ sống sau 1 năm dao động từ 25 – 50%. Tuổi thọ trung bình thường chỉ từ 1 – 2 năm. Một số trường hợp có thể kéo dài thời gian sống nếu được ghép tim hoặc áp dụng các liệu pháp điều trị tiên tiến. (1)
Tỷ lệ sống sau 5 năm ở người suy tim độ 4 rất thấp, chỉ khoảng 20%, đồng nghĩa với việc có tới 80% người bệnh không qua khỏi kể từ thời điểm chẩn đoán. Bên cạnh đó, nồng độ BNP (B-type natriuretic peptide) – một chỉ dấu sinh học quan trọng trong suy tim thường vượt 350 pg/mL, cho thấy tim đang quá tải nghiêm trọng và khả năng bơm máu giảm đi rõ rệt.
Hiểu rõ các yếu tố tiên lượng có thể giúp những người bị suy tim giai đoạn 4 được chăm sóc đúng cách để sống lâu hơn và chất lượng hơn.
Tuổi cao là yếu tố bất lợi cho tiên lượng. Phụ nữ thường có tuổi thọ cao hơn nam giới nếu suy tim không do thiếu máu cục bộ. Tuy nhiên, ở nữ giới sau mãn kinh, nguy cơ tử vong tăng nếu kèm tăng huyết áp, bệnh van tim, tiểu đường hoặc bệnh mạch vành.
Suy tim cấp độ 4 sống được bao lâu còn phụ thuộc nhiều vào nguyên nhân. Ví dụ như bệnh tim thiếu máu cục bộ có nguy cơ tử vong cao hơn so với nguyên nhân không do thiếu máu; Tăng huyết áp lâu năm làm suy giảm chức năng tim cũng dẫn đến tiên lượng kém hơn; Ngoài ra, mức độ tổn thương van tim thường ảnh hưởng lớn đến diễn tiến bệnh.
Tình trạng lâm sàng, đặc biệt là người nằm liệt giường hoặc lệ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc thường có tiên lượng xấu hơn. Mỗi đợt nhập viện vì suy tim cấp càng làm tăng nguy cơ tử vong đáng kể.
Suy tim phân suất tống máu (EF) phản ánh lượng máu tim bơm ra mỗi nhịp co bóp. Giá trị bình thường từ 50 – 70%. Khi EF < 35%, nguy cơ biến cố tim mạch và tử vong tăng cao. Dạng suy tim EF giảm thường có tiên lượng xấu hơn EF bảo tồn.
Các bệnh lý đi kèm có thể đẩy nhanh diễn tiến suy tim, làm giảm tiên lượng sống. Đặc biệt là bệnh tiểu đường, suy thận mạn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Tiểu đường gây tổn thương vi mạch lan rộng, khiến tim quá tải nặng còn suy thận mạn ảnh hưởng đến cân bằng dịch, điện giải và khả năng dùng thuốc trong khi đó COPD làm giảm khả năng vận động và tăng nguy cơ nhập viện.
Thống kê cho thấy, có đến 40 – 70% người bệnh suy tim giai đoạn cuối tử vong do tim mạch như suy tim tiến triển, loạn nhịp hoặc nhồi máu cơ tim. Ngoài ra, người bệnh còn tử vong do các bệnh lý đi kèm khác như bệnh hô hấp 21,2%, ung thư 13%. (2)
Lối sống thiếu khoa học cũng góp phần làm giảm khả năng sống ở người suy tim độ 4. Việc tiếp tục hút thuốc, uống rượu bia, ăn mặn hoặc không kiểm soát lượng dịch nạp vào dễ khiến bệnh ngày càng nặng hơn. Lười vận động, dinh dưỡng kém và tình trạng suy mòn cơ thể khiến cho chức năng tim suy giảm.
Đặc biệt, mỗi lần tái nhập viện vì suy tim mất bù đều đồng nghĩa với nguy cơ tử vong cao hơn, thời gian sống cũng bị rút ngắn.
Trầm cảm, lo âu kéo dài và thiếu sự gắn kết xã hội có thể khiến người bệnh suy tim giảm khả năng hợp tác điều trị, bỏ thuốc, không tuân thủ chế độ chăm sóc. Điều này dẫn đến kiểm soát bệnh kém, làm tăng nguy cơ tái nhập viện và rút ngắn thời gian sống.
Suy tim độ 4 sống được bao lâu là kết quả của cả quá trình điều trị bệnh. Việc này còn phụ thuộc vào khả năng đáp ứng với thuốc giãn mạch, lợi tiểu, ức chế men chuyển hoặc thuốc chẹn beta của người bệnh. Ngoài ra, việc dùng các thiết bị hỗ trợ như máy tạo nhịp tái đồng bộ tim (CRT), máy khử rung tự động (ICD), thiết bị hỗ trợ tâm thất (VAD) cần được đánh giá đúng chỉ định và theo dõi sát sao. Quan trọng không kém là việc tuân thủ điều trị của người bệnh, gồm dùng thuốc đúng liều, đúng giờ, tái khám đúng hẹn và duy trì chế độ sinh hoạt khoa học quyết định đến hiệu quả lâu dài và tiên lượng sống.
Khả năng tiếp cận chăm sóc y tế, điều kiện tài chính và hiểu biết về bệnh cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Những người có điều kiện tốt hơn thường được theo dõi sát, điều trị đúng phác đồ và có tiên lượng tích cực hơn so với người bị giới hạn kinh tế.
Tiên lượng sống phụ thuộc nhiều vào khả năng kiểm soát triệu chứng, can thiệp kịp thời. Dưới đây là tổng hợp các biện pháp giúp kéo dài thời gian sống cho người bệnh:
Tuân thủ điều trị nội khoa giúp kiểm soát triệu chứng, làm chậm tiến triển bệnh. Một số nhóm thuốc quan trọng gồm:
Trong những trường hợp không đáp ứng tối ưu với điều trị nội khoa, can thiệp ngoại khoa hoặc hỗ trợ cơ học có thể được cân nhắc:
Suy tim cấp độ 4 sống được bao lâu? Chăm sóc đúng cách giúp người bệnh kiểm soát triệu chứng tốt hơn, kéo dài thời gian sống và chất lượng sống đặc biệt trong giai đoạn nặng như suy tim độ 4.
Tuân thủ điều trị, tái khám đều đặn
Áp dụng chế độ ăn uống của bệnh nhân tim mạch
Ngoài ra, người bệnh có thể bổ sung dưỡng chất chuyên biệt như GDL-5 để hỗ trợ điều hòa cholesterol, giúp giảm xơ vữa động mạch, từ đó cải thiện chức năng tim, kiểm soát huyết áp.
Vận động nhẹ nhàng
Theo dõi triệu chứng hàng ngày
Hỗ trợ tâm lý
Chăm sóc giảm nhẹ
Ở giai đoạn cuối này, chăm sóc giảm nhẹ là rất cần thiết để giảm đau, nâng cao chất lượng sống những ngày cuối đời. Người bệnh nên được theo dõi, điều trị tại các trung tâm có chuyên môn cao, đầy đủ thiết bị hỗ trợ và đội ngũ y tế giàu kinh nghiệm như Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh.
Những thiết bị tiên tiến như máy điện tim ECG, siêu âm tim mạch 4D, theo dõi huyết áp 24 giờ, hệ thống DSA và phòng mổ Hybrid OR hiện đại và kỹ thuật hiện đại từ đặt stent graft trong phình tách động mạch chủ, mổ van tim ít xâm lấn, CABG không cần máy tim phổi nhân tạo đến phẫu thuật nội soi sẽ giúp người bệnh giai đoạn cuối được theo dõi và điều trị tích cực, kịp thời.
Ngoài ra, dịch vụ nội trú tại đây chuẩn khách sạn, tiện nghi cao cấp, khu khám VIP riêng biệt, giúp người bệnh an tâm điều trị và nghỉ ngơi.
Ngoài câu hỏi suy tim độ 4 sống được bao lâu, người bệnh và gia đình phải còn có những thắc mắc sau:
Mặc dù suy tim độ 4 là giai đoạn diễn tiến nặng, không thể phục hồi hoàn toàn, người bệnh vẫn có thể cải thiện triệu chứng, chất lượng sống nhờ điều trị tích cực. Việc tối ưu hóa phác đồ dùng thuốc, thay đổi lối sống, can thiệp bằng thiết bị hỗ trợ tim, ghép tim (nếu đủ điều kiện) và chăm sóc giảm nhẹ đúng cách có thể giúp người bệnh sống lâu, thoải mái hơn.
Một số biểu hiện cảnh báo tình trạng suy tim trở nặng, cần được cấp cứu ngay lập tức. Hãy chú ý đến những triệu chứng như khó thở dữ dội dù đang nghỉ ngơi, đau tức ngực, ngất hoặc gần ngất, nhịp tim bất thường, phù nề nhanh, tăng cân cấp tốc (trên 2 – 3kg vài ngày), môi hoặc đầu ngón tay tím tái, lú lẫn, khó tập trung. Khi gặp các dấu hiệu này, người bệnh cần được đưa đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt.
Một số thuốc tim mạch hiện nay đã chứng minh hiệu quả trong việc làm chậm sự tiến triển của suy tim độ 4, giảm tái nhập viện và kéo dài thời gian sống còn. Chẳng hạn, thuốc ACEi/ARB/ARNI giảm tải cho tim; thuốc chẹn beta hỗ trợ cải thiện chức năng tim; chất đối kháng aldosterone ngăn chặn tổn thương thêm cho cơ tim; thuốc SGLT2i có lợi cho cả bệnh suy tim có hoặc không kèm tiểu đường. Các thuốc này cần được dùng đều đặn, theo dõi chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa để đạt hiệu quả tối ưu.
Suy tim độ 4 sống được bao lâu? Tiên lượng sống của người bệnh giai đoạn này là từ một đến hai năm. Nhưng nếu được điều trị và chăm sóc tích cực, có thể khả quan hơn và chất lượng sống những năm tháng cuối đời sẽ tốt hơn. Vì vậy gia đình cần có chế độ chăm sóc đặc biệt, theo dõi sát sao các chỉ số tim mạch, huyết áp, cân nặng hàng ngày. Đặc biệt không được bỏ qua bất kỳ triệu chứng khó chịu nào người bệnh đang gặp phải, hãy gọi cấp cứu ngay khi có cơn khó thở, tím tái, yếu liệt, lú lẫn, đau tức ngực dữ dội, choáng ngất.