Rối loạn nhịp tim ở trẻ em chiếm khoảng 55,1 trên 100.000 bệnh nhân được đánh giá tại khoa cấp cứu nhi khoa trên thế giới. Tình trạng này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, từ khi còn bào thai cho đến tuổi thiếu niên và việc nhận biết bệnh đòi hỏi phải có sự quan tâm theo dõi. Trong khi phần lớn trẻ bị rối loạn nhịp tim có cấu trúc tim bình thường, bệnh cũng thường gặp ở trẻ có bệnh tim tiềm ẩn. [1]
Điều trị rối loạn nhịp tim ở trẻ em nên được cân nhắc dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh nhi, cấu trúc và chức năng của tim. Cùng ECO Pharma tìm hiểu bệnh rối loạn nhịp tim ở trẻ em trong bài viết sau đây.

Rối loạn nhịp tim ở trẻ em là tình trạng nhịp tim đập bất thường, xảy ra ở trẻ lớn lớn, trẻ nhỏ hoặc bẩm sinh. Theo đó, khi bị rối loạn nhịp tim, các tín hiệu điện bất thường từ hệ thống tạo nhịp hoặc dẫn truyền nhịp trong tim có thể khiến tim đập quá nhanh (nhịp tim nhanh), quá chậm (nhịp tim chậm) hoặc không đều.
Khi tim không đập bình thường, nó cũng không đảm bảo tốt chức năng bơm máu đi khắp cơ thể. Điều này đồng nghĩa với việc các bộ phận quan trọng của cơ thể như là não, phổi và các cơ quan khác có thể không nhận đủ máu, dẫn đến việc không thể hoạt động tốt và có thể bị tổn thương nghiêm trọng.
Chứng rối loạn nhịp tim thường được phân loại theo vị trí khởi phát rối loạn nhịp trong tim, từ các buồng tim trên (tâm nhĩ) hoặc buồng tim dưới (tâm thất) dựa theo các tín hiệu điện của tim. Để tránh nguy hiểm, phụ huynh nên đưa con mình đi khám với bác sĩ để tìm ra phương hướng điều trị thích hợp, giảm thiểu nguy cơ rủi ro cao.
Nhịp tim bình thường ở trẻ em còn phụ thuộc vào từng độ tuổi khác nhau, thường dao động khoảng [2]:
| Nhịp tim trẻ em sơ sinh từ 0 đến 1 tháng tuổi | 70 – 190 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ sơ sinh từ 1 đến 11 tháng tuổi | 80 – 160 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ từ 1 đến 2 tuổi | 80 – 130 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ em từ 3 đến 4 tuổi | 80 – 120 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ em từ 5 đến 6 tuổi | 75 – 115 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ em từ 7 đến 9 tuổi | 70 – 110 nhịp mỗi phút. | 
| Nhịp tim trẻ em từ 10 tuổi trở lên | 60 – 100 nhịp mỗi phút. | 
Khi trẻ càng lớn những chỉ số về nhịp tim, nhịp thở, huyết áp cũng sẽ giảm dần xuống. Đặc biệt, khi trưởng thành, nhịp tim bình thường chỉ còn dao động trong khoảng từ 60 – 100 lần mỗi phút.
Bình thường, sức đề kháng của trẻ em tương đối yếu hơn người trưởng thành. Do đó, cơ thể trẻ dễ bị phản ứng với các yếu tố từ môi trường bên ngoài và gây rối loạn nhịp tim. Rối loạn nhịp tim ở trẻ em có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:
Các triệu chứng rối loạn nhịp tim diễn ra khác nhau ở mỗi trẻ em, có những trẻ không phát sinh triệu chứng bất thường nào. Hơn nữa, điều này cũng phụ thuộc vào loại rối loạn nhịp tim và mức độ nghiêm trọng mà nó mang lại.
Dưới đây là những tình trạng của bệnh rối loạn nhịp tim ở trẻ em bao gồm:
Các triệu chứng về rối loạn nhịp tim ở trẻ em thường không điển hình và có thể dễ bị bỏ sót nếu người lớn không tinh ý nhận ra những điều bất thường này. Chính vì vậy, ngay khi nhận ra trẻ có những dấu hiệu bất thường, phụ huynh nên đưa trẻ đến gặp bác sĩ ngay lập tức để được thăm khám, chẩn đoán và tư vấn điều trị thích hợp.

Rối loạn nhịp tim ở trẻ em thường được phân loại dựa trên vị trí khởi phát của tình trạng này ở trong tim như là tâm nhĩ, tâm thất [3]. Các rối loạn nhịp tim có nhiều loại bao gồm:
Rối loạn nhịp tim nhanh thường đề cập đến các dạng nhịp tim nhanh không kéo dài và kéo dài có nguồn gốc từ các vùng cơ tim hoặc vòng vào lại.
Đối với trẻ sơ sinh, nhịp tim khi nghỉ ngơi hơn 160 nhịp mỗi phút được coi là nhịp tim nhanh. Đối với thanh thiếu niên, con số này chỉ dừng ở mức 90 nhịp mỗi phút. Có một số loại nhịp tim nhanh không cần điều trị cũng có thể tự khỏi, tuy nhiên một số dạng rối loạn nhịp tim nhanh khác lại nguy hiểm hơn rất nhiều.
Ba cơ chế nhịp tim nhanh đã được mô tả. Trong đó nhịp tim nhanh do vòng vào lại phổ biến nhất. Cơ chế thứ hai là nhịp tim nhanh do tăng tính tự động, là kết quả của việc tăng cường phát nhịp tự động của vị trí phát nhịp. Điều này có thể ở trong nút xoang như trong nhịp tim nhanh xoang hoặc ở các ổ ở nơi khác trong tâm nhĩ.
Nhịp nhanh xoang thường gặp trong bối cảnh sốt, thiếu máu, giảm thể tích máu và các thuốc làm tăng catecholamine và hiếm khi liên quan đến bệnh tim tiềm ẩn.
Nhịp tim nhanh xoang có thể vượt quá 140 lần/phút ở trẻ em và 180 lần/phút ở trẻ sơ sinh nhưng thường dưới 200 lần/phút. Điều trị chủ yếu nhằm vào các rối loạn cơ bản.
Nhịp nhanh trên thất là chứng rối loạn nhịp tim nhanh kéo dài phổ biến nhất ở trẻ em. Tỷ lệ thực sự của SVT ở trẻ em vẫn chưa được biết rõ nhưng được ước tính từ 1 trên 25.000 đến 1 trên 250 trẻ.
Nhịp nhanh trên thất thường không gây nguy hiểm đến tính mạng, có thể tự biến mất nhưng trẻ em cần được điều trị nhanh chóng nếu tình trạng này kéo dài.
Đã có báo cáo rằng 25% trẻ em biểu hiện SVT có hội chứng Hội chứng Wolf Parkinson White (WPW) trên điện tâm đồ (ECG). Tỷ lệ đột tử do tim trong hội chứng WPW trong thời thơ ấu được ước tính lên tới 0,5%. Vì lý do này, bất kỳ trẻ nào có WPW và cơn nhịp tim nhanh hoặc ngất nên được xem xét thực hiện thủ thuật cắt đốt đường phụ qua thông tim. [4]
Nhịp nhanh vào lại nhĩ – thất (qua trung gian đường phụ) (AVRT)
Đây là loại nhịp nhanh trên thất phổ biến nhất được thấy ở trẻ em, chiếm 82% rối loạn nhịp tim xảy ra trong giai đoạn nhũ nhi. Nhịp nhanh vào lại nhĩ – thất bao gồm hai con đường riêng biệt giữa tâm nhĩ và tâm thất, tạo ra một mạch điện vào lại đi xuống nút nhĩ – thất và sau đó đi lên một con đường phụ bên ngoài nút nhĩ – thất tạo ra nhịp tim nhanh phức hợp QRS hẹp.
Nhịp tim nhanh vào lại nhĩ – thất ngược chiều hiếm gặp hơn nhiều, làm đảo ngược hướng dẫn truyền, với việc truyền xuống đường phụ và đi lên qua nút nhĩ – thất, tạo ra phức bộ QRS rộng. Khi về lại nhịp xoang bình thường, 50% bệnh nhi biểu hiện của hội chứng kích thích sớm dưới dạng sóng delta trên điện tâm đồ, phù hợp với hội chứng Wolf-Parkinson-White (WPW); số bệnh nhi còn lại có đường đi “che giấu” không rõ ràng trong nhịp xoang.
Hội chứng này có thể gây ra đáp ứng thất nhanh trong trường hợp rung nhĩ dẫn đến rung thất và tử vong đột ngột.
Nhịp tim nhanh vào lại nút nhĩ – thất (AVNRT)
Điều này cũng là do vòng vào lại nhưng có đường dẫn liên quan đến nút nhĩ – thất. Trong dạng rối loạn nhịp tim ở trẻ em này, trong nút nhĩ thất cũng có hai nhánh dẫn truyền riêng biệt, một con đường “chậm” thường dẫn truyền xuôi và một con đường được gọi là con đường “nhanh” thường dẫn truyền ngược. Loại này chiếm khoảng 15% nhịp nhanh trên thất ở trẻ em, tăng theo độ tuổi và hiếm gặp ở trẻ sơ sinh.
Hai loại nhịp tim nhanh này thường không thể phân biệt được về mặt lâm sàng và được dung nạp tốt ở hầu hết bệnh nhi. Đặc biệt trong trường hợp trẻ sơ sinh mắc AVRT, trong đó nhịp tim nhanh có thể không được nhận biết trong thời gian dài dẫn đến tình trạng tim mạch dần dần xấu đi.
May mắn thay, liệu pháp điều trị ban đầu ở cả hai loại nhịp nhanh trên thất đều giống nhau. Làm gián đoạn dẫn truyền qua nút nhĩ – thất bằng adenosine sẽ chấm dứt cả hai loại rối loạn nhịp trên và việc lựa chọn dùng thuốc dài hạn hoặc ngưng hẳn sau đó là rất giống nhau.
Nhịp nhanh nhĩ lạc chỗ
Nhịp nhanh nhĩ lạc chỗ không phổ biến, chiếm khoảng 10% nhịp nhanh trên thất ở trẻ em. Nguyên nhân là do tính tự động tăng lên của một hoặc nhiều ổ bên ngoài nút xoang và thường kháng trị với điều trị nội khoa và chuyển nhịp. Nhịp tim nhanh nhĩ lạc chỗ có thể là nguyên nhân của bệnh cơ tim do nhịp tim nhanh vì tính chất dai dẳng và mãn tính của nó. Nguyên nhân chính của tình trạng này vẫn chưa được biết nhưng virus, khối u tâm nhĩ và khuynh hướng di truyền được cho là có liên quan.
Biểu hiện lâm sàng phụ thuộc vào mức độ rối loạn chức năng tim. Đối với hầu hết bệnh nhi, biểu hiện các triệu chứng nhẹ với chức năng tim được bảo tồn.
Rung nhĩ (AFib)
Rung nhĩ chủ yếu gặp ở trẻ em mắc bệnh tim cấu trúc tiềm ẩn và ở những người đã trải qua phẫu thuật tim. Nếu rung nhĩ có kèm đường phụ nhĩ – thất như trong hội chứng WPW, những bệnh nhi này có thể có nguy cơ tử vong đột ngột cao hơn nếu có sự dẫn truyền nhanh đến tâm thất thông qua đường phụ.
Rung nhĩ cũng có thể liên quan đến bệnh cơ tim, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim và cường giáp. Một trong một số trường hợp hiếm gặp có khuynh hướng di truyền.
Cơ chế này bao gồm nhiều vòng vào lại chủ yếu ở tâm nhĩ trái. Cũng như ở người lớn, khả năng huyết khối tâm nhĩ kèm theo nguy cơ đột quỵ do tắc mạch là rất đáng lo ngại.
Cuồng nhĩ
Cuồng nhĩ thường xảy ra trong thời kỳ bào thai hoặc ngay sau khi sinh. Nó hiếm khi được thấy sau giai đoạn sơ sinh, ngoại trừ trong bối cảnh có bệnh tim bẩm sinh và phẫu thuật tim, trong đó phổ biến nhất ở trẻ em đã trải qua thủ thuật Fontan, đóng vách liên nhĩ và sửa chữa tứ chứng Fallot (TOF).
Bệnh tim bẩm sinh và bệnh nhân sau phẫu thuật chiếm khoảng 80% trẻ lớn hơn có biểu hiện cuồng nhĩ. Nó chiếm khoảng 30% nhịp tim nhanh của thai nhi, 18% nhịp tim nhanh ở trẻ sơ sinh và chỉ 8% ở trẻ lớn.
Cuồng nhĩ bao gồm một vòng vào lại duy nhất trong cơ tâm nhĩ, phổ biến nhất là xung quanh bờ của van ba lá. Sự suy giảm huyết động được xác định bởi thời gian kéo dài và mức độ dẫn truyền nhĩ – thất, với tỷ lệ dẫn truyền AV 1:1 dẫn đến sự mất ổn định đáng kể nhất. Biểu hiện lâm sàng phụ thuộc vào đáp ứng của tâm thất.
Mặc dù ít phổ biến hơn ở trẻ em so với người lớn, nhịp tim nhanh phức hợp rộng vẫn xảy ra với tần suất nhất định. Không phải tất cả nhịp tim nhanh phức hợp rộng đều do nhịp nhanh thất (VT). Chẩn đoán phân biệt nhịp nhanh phức bộ rộng bao gồm block nhánh bó trong nhịp nhanh trên thất và nhịp nhanh trên thất có kích thích sớm ở bệnh nhi WPW…
Do tính chất tiềm tàng đe dọa tính mạng của nhịp nhanh thất, tất cả nhịp nhanh phức hợp rộng nên được điều trị như nhịp nhanh thất cho đến khi được chứng minh ngược lại.
Nhịp nhanh thất (VT)
Nhịp nhanh thất là chứng rối loạn nhịp tim có khả năng đe dọa tính mạng, được công nhận là nguyên nhân gây tử vong đột ngột ở cả người lớn và trẻ em. Nó hiếm gặp ở trẻ em và chiếm khoảng 6% số bệnh nhân bị nhịp tim nhanh.
Các cơn kéo dài dưới 30 giây được gọi là nhịp nhanh thất không kéo dài và những cơn dài hơn 30 giây được gọi là nhịp nhanh thất dai dẳng. nhịp nhanh thất còn có thể được phân loại là đơn dạng, với tần số đều đặn và một hình thái QRS duy nhất so với đa dạng, với sự thay đổi về tần số và hình thái QRS.
Các cơ chế cơ bản tương tự của tự động, vòng vào lại và nhịp tim nhanh kích hoạt tồn tại ở nhịp nhanh thất cũng như các rối loạn nhịp tim khác. Nguyên nhân rất khác nhau và bao gồm vô căn, ngộ độc thuốc, bệnh cơ tim, viêm cơ tim, khối u tim và các bất thường về chuyển hóa…
Một cơn nhịp nhanh thất nếu chỉ kéo dài khoảng vài giây thì thường vô hại, tuy nhiên nếu nó kéo dài lâu hơn có thể gây nguy hiểm tính mạng. Phương pháp điều trị nhịp nhanh thất bao gồm dùng thuốc, thủ thuật cắt đốt (sử dụng năng lượng nóng hoặc lạnh để loại bỏ nguồn gây rối loạn nhịp tim), cấy máy khử rung tim cấy ghép ICD hoặc phẫu thuật.
Hội chứng QT kéo dài
Hội chứng QT dài bẩm sinh là một rối loạn di truyền gây tái cực tim kéo dài có thể gây ngừng tim và đột tử. Những bất thường trong kênh ion của tim khiến bệnh nhi mắc phải nhịp nhanh thất đa dạng đặc trưng được gọi là “xoắn đỉnh”. Khoảng QT kéo dài mắc phải cũng có thể xảy ra và có thể do thuốc, tình trạng bệnh lý tiềm ẩn hoặc mất cân bằng điện giải gây ra.
Các bác sĩ có thể sử dụng thuốc, máy tạo nhịp tim hoặc máy khử rung tim cấy ghép (ICD) để ngăn ngừa ngừng tim và đột tử.
Rối loạn nhịp tim chậm bao gồm rối loạn chức năng nút xoang và rối loạn dẫn truyền nhĩ – thất (block nhĩ thất). Rối loạn chức năng nút xoang (SND) tương đối hiếm gặp ở trẻ em. Hầu hết trẻ em mắc SND đều không có triệu chứng. Tỷ lệ mắc block AV hoàn toàn bẩm sinh thường được báo cáo là từ 1/15.000 đến 1/25.000 ca sinh sống.
Tiền sử gia đình có rối loạn nhịp thường xuất hiện ở những người mắc hội chứng QT kéo dài. Cũng nên tìm hiểu lịch sử dùng thuốc và chế độ ăn uống cẩn thận. Một số thuốc thông mũi có thể gây ra các cơn nhịp tim nhanh.
Nhịp chậm xoang có thể xuất phát từ nhiều tình trạng bệnh, hầu hết không phải do bệnh tim nguyên phát. Ngoại lệ là rối loạn chức năng nút xoang, một sự bất thường trong việc tạo xung và lan truyền của nút xoang thường gây ra ở trẻ em do chấn thương trực tiếp hoặc gián đoạn cung cấp máu cho nút xoang từ phẫu thuật tim trước đó.
Nguyên nhân của nhịp chậm xoang ngoài bệnh tim bẩm sinh rất đa dạng còn bao gồm tăng áp lực nội sọ, rối loạn điện giải, suy hô hấp, suy giáp và một số loại thuốc. Nhu cầu điều trị khẩn cấp đối với nhịp chậm xoang là rất hiếm.
Sự hiện diện của nhịp chậm xoang ở một đứa trẻ có vẻ ngoài khỏe mạnh nói chung không đáng lo ngại, mặc dù chứng chán ăn tâm thần nên được xem xét. Ở bệnh nhi hấp hối với nhịp tim chậm xoang, việc xác định khẩn cấp nguyên nhân cơ bản là hết sức quan trọng. Atropine và epinephrine làm tăng tần số xoang ở hầu hết bệnh nhân. Những bệnh nhân có triệu chứng rối loạn chức năng nút xoang thực sự có thể cần cấy máy tạo nhịp tim.
Block nhĩ thất đề cập đến sự suy giảm hoặc gián đoạn dẫn truyền qua nút AV. Nó được chia thành 3 độ với mức độ gián đoạn dẫn truyền tăng dần.
Block nhĩ thất độ 1 nhìn chung lành tính hơn và có thể là phát hiện bình thường ở thanh thiếu niên trong khi ngủ. Điều trị nhằm vào các nguyên nhân cơ bản có thể đảo ngược được. Sự tiến triển đến mức độ tắc nghẽn dẫn truyền cao hơn đã được báo cáo và bệnh nhân có triệu chứng có thể được hưởng lợi từ việc điều trị bằng atropine hoặc isoproterenol.
Block nhĩ thất độ 2 có khả năng tiến triển thành block nhĩ thất hoàn toàn. Cấy máy tạo nhịp tim đã có thể được cân nhắc chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng trong nhóm này.
Block nhĩ thất độ 3 là sự mất dẫn truyền hoàn toàn từ tâm nhĩ đến tâm thất, biểu hiện bằng sự phân ly AV. Block độ 3 có thể là bẩm sinh, chủ yếu liên quan đến bệnh mạch collagen của mẹ, hoặc bệnh tim bẩm sinh, hoặc mắc phải do tổn thương nút nhĩ thất do phẫu thuật tim, viêm cơ tim do virus, bệnh Lyme hoặc rối loạn chuyển hóa hoặc thần kinh cơ.
Nhiều trẻ em không có triệu chứng khi được chẩn đoán. Ở trẻ lớn và thanh thiếu niên có thể có các triệu chứng không dung nạp vận động, mệt mỏi, chóng mặt, ngất hoặc có dấu hiệu suy tim sung huyết, có thể xảy ra đột tử.
Cuối cùng, hầu hết bệnh nhân đều cần cấy máy tạo nhịp tim, trừ khi nguyên nhân có thể khắc phục được, chẳng hạn như bệnh Lyme, khi đó việc tạo nhịp tim tạm thời có thể đủ.

Ngoài các loại rối loạn nhịp tim nhanh và chậm ở trẻ em, còn nhiều tình trạng rối loạn nhịp tim khác như là:
Đây là một bệnh tim di truyền hiếm gặp. Nó thường xảy ra vào những thời điểm nồng độ adrenaline tăng cao, chẳng hạn như khi tập thể dục hoặc khi có cảm xúc mạnh. Nếu không được điều trị, nhịp tim nhanh thất đa dạng (CPVT) có thể khiến cho tim ngừng đập.
Ngoại tâm thu nhĩ (PAC) và ngoại tâm thu thất (PVC) là những nhịp đập bất thường bắt đầu ở buồng trên của tim (tâm nhĩ) hoặc buồng dưới của tim (tâm thất). Tình trạng này thường tự hết mà không cần điều trị.
Bệnh nhi mắc bệnh tim bẩm sinh có nguy cơ mắc chứng rối loạn nhịp tim suốt đời. Các loại rối loạn nhịp tim phụ thuộc vào tình trạng bất thường cơ bản của tim và quan trọng hơn là vào việc sửa chữa bằng phẫu thuật.
Thông liên thất (VSD) cho đến nay là dị tật tim bẩm sinh phổ biến nhất, thường không liên quan đến bất thường về nhịp. Trong thời đại hiện nay, các thông liên thất có ý nghĩa lâm sàng được sửa chữa ở thời thơ ấu, làm giảm tỷ lệ mắc chứng rối loạn nhịp tim. Bằng cách tránh cắt tâm thất phải, các phương pháp phẫu thuật mới hơn đã làm thay đổi đáng kể tỷ lệ rối loạn nhịp thất.
Tuy nhiên, những bệnh nhi đã được phẫu thuật vẫn có nguy cơ cao bị block nhĩ thất, thậm chí muộn hơn sau khi sửa chữa. Sự hiện diện của thông liên thất nhỏ, không đáng kể về mặt huyết động không làm tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim ở trẻ em.
Thông liên nhĩ (ASD) xảy ra ở 5% – 10% trong số tất cả các khuyết tật tim bẩm sinh và được tìm thấy ở 30% – 50% trẻ em mắc các loại bệnh tim bẩm sinh khác. Trong thông liên nhĩ lớn, nhịp nhanh nhĩ có thể phát triển thứ phát do quá tải thể tích mạn tính và giãn nhĩ.
Việc sửa chữa sớm đã được ghi nhận là giúp cải thiện khả năng sống sót và giảm tỷ lệ mắc chứng rối loạn nhịp tim muộn. Các biến chứng phẫu thuật có thể xảy ra bao gồm tổn thương nút xoang gây rối loạn chức năng nút xoang và nhịp tim chậm thứ phát hoặc hội chứng nhịp tim nhanh.
Tứ chứng Fallot (TOF) là bệnh tim bẩm sinh tím tái phổ biến nhất, chiếm 3,5% – 9% bệnh nhi mắc bệnh tim bẩm sinh. Chứng loạn nhịp tim xuất phát từ cả tâm nhĩ và tâm thất xảy ra ở những bệnh nhi chưa được sửa chữa và đã được sửa chữa.
Mặc dù nhịp nhanh nhĩ thực sự phổ biến hơn, mối quan tâm chính trong tứ chứng Fallot là nhịp nhanh thất, với nguy cơ tử vong về sau ước tính khoảng 3% – 6%. Rối loạn chức năng nút xoang và nhịp nhanh vào lại nhĩ – thất cũng đã được mô tả, với tỷ lệ mắc là 20% – 30%.
Chuyển vị đại động mạch có “sửa chữa bẩm sinh” hay bất tương hợp 2 lần rất hiếm, ước tính xảy ra ở 1% tổng số bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh nhưng nguy cơ rối loạn nhịp tim rất cao. Trong tình trạng này, tâm nhĩ phải được gắn vào tâm thất trái đổ vào động mạch phổi và tâm nhĩ trái đi vào tâm thất phải và do đó vào động mạch chủ. Tỷ lệ block nhĩ thất hoàn toàn tự phát đã được báo cáo là cao tới 22% do những bất thường nội tại của bó His.
Chuyển vị đơn thuần của các động mạch lớn (nối thất phải với động mạch chủ và nối thất trái với động mạch phổi) phổ biến hơn nhiều và thường gây tử vong trước khi kịp phẫu thuật chỉnh sửa. Với kỹ thuật phẫu thuật hiện nay, nguy cơ rối loạn nhịp tim tương đối thấp.
Dị tật Ebstein là một tình trạng rất hiếm gặp trong đó các lá van ba lá có sự gắn kết bất thường gây ra sự dịch chuyển của van vào tâm thất phải nên được gọi là tâm thất “tâm nhĩ”. Bệnh nhân có nguy cơ phát triển SVT cao hơn, với tỷ lệ mắc bệnh cao tới 42%.
Trong bối cảnh hở van ba lá nặng và/hoặc thông liên nhĩ, nhịp tim nhanh có thể được dung nạp kém. Bệnh nhân có dị tật Ebstein cũng có nguy cơ cao bị cuồng nhĩ và rung nhĩ do tâm nhĩ phải mở rộng.
Bệnh cơ tim là một nhóm rối loạn của bệnh cơ nội tại. Những bệnh nhân này có nguy cơ cao bị nhĩ và VT. Việc điều trị có thể là một thách thức và việc cấy ICD đang được sử dụng ngày càng nhiều ở những quần thể này.
Bệnh nhân mắc bệnh cơ tim phì đại (HCM) có nguy cơ cao bị VT ác tính và tử vong đột ngột. Nhiều yếu tố nguy cơ đã được liên quan, bao gồm tiền sử gia đình đột tử, tiền sử ngất, độ dày vách ngăn lớn, VT không kéo dài và đáp ứng huyết áp không thích hợp khi gắng sức. Tử vong thường đột ngột và thường xảy ra khi gắng sức quá mức với tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là 3% – 5% ở trẻ em và thanh thiếu niên mắc HCM.
Liệu pháp hiện tại bao gồm hạn chế tập thể dục và sử dụng thuốc chẹn beta hoặc thuốc chẹn kênh canxi cho bệnh nhân có triệu chứng. Phẫu thuật được khuyến cáo cho các trường hợp kháng thuốc với tắc nghẽn đường ra thất trái rõ rệt và cấy ICD để phòng ngừa tiên phát ở bệnh nhân có nguy cơ cao và phòng ngừa thứ phát ở bệnh nhân ngất hoặc VT được ghi nhận.
Bệnh cơ tim giãn nở (DCM) là bệnh cơ tim nặng phổ biến nhất, chiếm hơn 50% trường hợp nhi khoa. Nguyên nhân của DCM rất rộng và bao gồm các nguyên nhân nhiễm trùng, miễn dịch, gia đình, chuyển hóa, nhiễm độc và rối loạn nhịp tim. Mặc dù những bệnh nhân này có nguy cơ mắc VT, SVT phổ biến hơn nhưng đôi khi rất khó để phân biệt nhịp nhanh nhĩ với nhịp nhanh xoang. Nhưng nói chung, tần số trung bình vượt quá 150 bpm có mối tương quan cao với nhịp nhanh nhĩ.
Điều trị nhắm vào các triệu chứng, rối loạn chức năng tâm thất và rối loạn nhịp cơ bản. Việc sử dụng ICD dự phòng ở trẻ em không rõ ràng như ở người lớn có bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ.
Viêm cơ tim, tiền thân phổ biến của DCM, có thể gây tử vong đột ngột. Mặc dù tỷ lệ chính xác của rối loạn nhịp tim liên quan đến viêm cơ tim vẫn chưa được biết rõ nhưng VT và block AV độ cao không phải là hiếm.
Loạn sản tâm thất phải do rối loạn nhịp tim (ARVD) là một bệnh cơ di truyền liên quan đến thoái hóa mỡ xơ của tâm thất phải và thường liên quan đến VT và tử vong đột ngột. Di truyền chủ yếu là di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường nhưng các trường hợp lẻ tẻ đã được mô tả. Độ tuổi biểu hiện cao nhất là từ cuối tuổi thiếu niên đến những năm 20 và triệu chứng biểu hiện phổ biến là ngất khi gắng sức.
Các dấu hiệu trên điện tâm đồ bao gồm chậm dẫn truyền thất phải, sóng T đảo ngược ở các chuyển đạo trước tim phải không phù hợp với tuổi và PVC hình thái thất phải. Điều trị thường liên quan đến việc cấy ICD.
Biến chứng của tình trạng rối loạn nhịp tim ở trẻ em có thể khác nhau tùy thuộc vào loại rối loạn nhịp tim, mức độ nghiêm trọng và thời gian tồn tại của rối loạn nhịp tim.
Những biến chứng nguy hiểm về rối loạn nhịp tim ở trẻ bao gồm:
Ngoài ra, một số biến chứng khác có thể bao gồm:
Khi phát hiện ra trẻ bị rối loạn nhịp tim, các bậc phụ huynh nên đưa con mình đến bác sĩ để được khám chữa chi tiết và xét nghiệm tổng quan để tìm ra dấu hiệu, triệu chứng của rối loạn nhịp tim. Dưới đây là các xét nghiệm mà bác sĩ cần kiểm tra trên cơ thể người bệnh bao gồm:
Xét nghiệm máu là phương pháp phổ biến để kiểm tra cụ thể các vấn đề sức khỏe có thể gây ra rối loạn nhịp tim, chẳng hạn như suy giáp hoặc rối loạn điện giả. Đồng thời nó có thể phát hiện xem trong cơ thể của trẻ có bất kỳ thành phần của thuốc nào hay không.
Siêu âm tim sẽ được các chuyên gia bác sĩ sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của tim. Đồng thời nó có thể giúp bác sĩ đánh giá chi tiết về cấu trúc và chức năng của tim.
Đây là phương pháp chẩn đoán phổ biến nhất để phát hiện rối loạn nhịp tim ở trẻ em. ECG có thể ghi lại hoạt động điện của tim trong một khoảng thời gian ngắn. Hơn nữa, thử nghiệm điện tâm đồ có thể phát hiện ra nhiều loại rối loạn nhịp tim như là nhịp tim nhanh, chậm và nhịp tim không đều. Bài kiểm tra có thể là:

Nghiên cứu điện sinh lý là một xét nghiệm chuyên sâu được thực hiện để xác định vị trí và nguyên nhân gây ra rối loạn nhịp tim ở trẻ em. Đối với xét nghiệm này, bác sĩ sẽ đặt một ống nhỏ mỏng (ống thông) vào mạch máu lớn ở chân hoặc cánh tay.
Bác sĩ di chuyển ống thông đến tim mạch của trẻ từ đó tìm ra loại tín hiệu điện gây ra sự cố và vị trí phát ra tín hiệu đó ở đâu. EPS thường được thực hiện ở trẻ em có các rối loạn nhịp tim nghiêm trọng hoặc khó điều trị.
Holter monitor là một thiết bị ghi lại nhịp tim liên tục trong 24 giờ hoặc lâu hơn. Một màn hình nhỏ Holter monitor được đeo vào tay trẻ có thể giúp phát hiện các rối loạn nhịp tim xảy ra không thường xuyên.
Cách điều trị bệnh rối loạn nhịp tim ở trẻ em phụ thuộc vào loại rối loạn nhịp tim, mức độ nghiêm trọng và các yếu tố khác [4]. Một số phương pháp điều trị phổ biến bao gồm:
Cha mẹ có thể chú ý những điều sau để phòng ngừa biến chứng và chăm sóc trẻ bị rối loạn nhịp tim:

Việc chẩn đoán và quản lý đúng đắn các rối loạn nhịp tim ở trẻ em là một thách thức. Sự hiểu biết về sự đa dạng của các bệnh có thể khiến trẻ có tim bình thường hoặc mắc bệnh tim cấu trúc bị rối loạn nhịp tim là điều cần thiết để điều trị thích hợp.