Hàng triệu người trên thế giới bị viêm gan virus B, trong đó ở Việt Nam tỷ lệ mắc chiếm khoảng 20% dân số. Hầu hết các cặp vợ chồng nhiễm bệnh đều có lo lắng về khả năng lây truyền sang thai nhi và băn khoăn có thể sinh con được không? Mời bạn cùng ECO Pharma đi tìm câu trả lời cho thắc mắc viêm gan B có sinh con được không ngay sau đây.
Nếu bạn lo lắng về khả năng lây truyền thì câu trả lời là người mắc bệnh hoàn toàn có thể sinh nở bình thường mà không bị lây bệnh sang con. Miễn là áp dụng các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm và điều trị đúng cách.
Nguy cơ lây truyền cho trẻ sơ sinh lên đến 90% ở các bà bầu bị nhiễm virus HBV đang hoạt động nhưng xảy ra chủ yếu trong quá trình sinh. Mặc dù vậy áp dụng các biện pháp sàng lọc thai kỳ, dùng thuốc kháng virus an toàn ở ba tháng cuối và tiêm vắc xin cho trẻ ngay khi chào đời sẽ có thể bảo vệ khỏi nguy cơ này (1). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo, tiêm vắc xin HBV và globulin miễn dịch viêm gan B (HBIG) cho trẻ trong vòng 12 đến 24 giờ sau sinh để giảm nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con (2). Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bảo vệ của vắc xin ở trẻ em đạt 98% – 100% (3).
Nếu người bố bị nhiễm virus HBV thì không lây cho thai nhi nhưng dễ lây cho người mẹ qua hoạt động tình dục. Những bà bầu như vậy cần có biện pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục và sinh hoạt thường ngày; cần được sàng lọc thai kỳ và tiêm vắc xin HBV. Theo các nghiên cứu sau khi tiêm vắc xin HBV, tỷ lệ huyết thanh bảo vệ đạt 90% – 95% ở người lớn khỏe mạnh.
Viêm gan B có sinh con được không? Còn nếu bạn lo lắng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản thì câu trả lời là người bệnh vẫn có con được. Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy chất lượng tinh trùng ở đàn ông bị viêm gan virus B giảm nhưng không đồng nghĩa với vô sinh. Trong khi đó virus cũng không làm giảm khả năng thụ thai ở phụ nữ. Chỉ có điều sức khỏe suy yếu do bệnh tật và tác dụng phụ của thuốc chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến tình dục và khả năng thụ thai.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tiêu cực giữa viêm gan siêu vi B và chất lượng tinh trùng. Virus viêm gan B có thể làm giảm nồng độ tinh trùng, khả năng di chuyển, hình thái và thể tích tinh dịch từ đó làm giảm khả năng thụ thai. (4)
Ngoài ra các biến chứng của bệnh như suy giảm chức năng gan gây rối loạn nội tiết tố, cảm giác mệt mỏi, suy nhược cơ thể hoặc tác dụng phụ của thuốc có thể gây ảnh hưởng đến chức năng sinh lý và ham muốn tình dục. Chúng gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng thụ thai ở cả nam và nữ.
Nguy cơ lây truyền virus HBV từ cha hoặc mẹ sang con có sự khác biệt. Lây truyền dọc từ mẹ sang con là con đường phổ biến nhất, chiếm khoảng 70% – 90% trường hợp nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh, trẻ em (5). Trong thai kỳ hệ miễn dịch của người mẹ thường suy yếu, viêm gan virus B lúc này có thể sẽ hoạt động mạnh hơn làm bùng phát bệnh.
Virus HBV có thể lây qua nhau thai nhưng nguy cơ cao nhất xảy ra trong quá trình sinh nở, khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với máu và dịch cơ thể của mẹ. Tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con cũng thay đổi đáng kể tùy theo tình trạng kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg) của người mẹ. Nó có thể dao động từ 70% – 90% đối với những bà mẹ có HBeAg dương tính so với 10% – 40% đối với những bà mẹ có HBeAg âm tính (6). Đáng chú ý, phần lớn những trẻ bị lây nhiễm theo con đường này sẽ trở thành người mang virus mạn tính, đối diện nguy cơ cao gây tổn thương gan dẫn đến xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan (HCC).
Ngược lại, nguy cơ lây truyền ngang từ người cha bị viêm gan B sang con gần như không đáng kể. Virus HBV không lây truyền qua tinh trùng và không ảnh hưởng đến phôi thai. Rủi ro duy nhất có thể xảy ra trong trường hợp này là người cha lây virus cho người mẹ qua quan hệ tình dục không an toàn, sau đó người mẹ sẽ truyền virus cho con. Do đó, người vợ cần được xét nghiệm, tiêm phòng vắc xin HBV đầy đủ trước khi mang thai để bảo vệ cả mẹ và con.
Để phòng ngừa lây nhiễm từ cha mẹ sang con, bạn có thể áp dụng một số biện pháp sau:
Phòng ngừa lây nhiễm viêm gan B trong thai kỳ tập trung vào việc giảm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con. Phụ nữ cần xét nghiệm HBsAg, HBeAg và tải lượng virus HBV DNA trước khi mang thai hoặc trong tam cá nguyệt đầu tiên để đánh giá tình trạng nhiễm virus.
Đối với bà bầu có tải lượng virus cao HBV DNA >200.000 IU/mL, bác sĩ có thể chỉ định dùng thuốc kháng virus như tenofovir từ tuần 28 – 32 của thai kỳ. Nghiên cứu cho thấy tenofovir làm giảm đáng kể tỷ lệ lây truyền HBV theo chiều dọc, cũng như nồng độ HBV DNA ở những bà mẹ bị nhiễm HBV. Hơn nữa, tenofovir an toàn, dung nạp được cho cả mẹ và con. (7)
Nếu người chồng nhiễm HBV, vợ cần hoàn thành liệu trình tiêm vắc xin HBV (3 mũi trong 6 tháng) trước khi mang thai để đạt miễn dịch, giảm nguy cơ lây nhiễm qua đường tình dục. Bên cạnh đó, phụ nữ mang thai cũng cần kiểm tra men gan, chức năng gan định kỳ, kịp thời phát hiện biến chứng viêm gan virus B bùng phát hoặc xơ gan tiến triển.
Ngay sau khi chào đời, trong vòng 12 đến 24 giờ đầu, tất cả trẻ sinh ra từ mẹ bị viêm gan B cần được tiêm hai loại thuốc:
Trẻ sơ sinh cần được vệ sinh sạch sẽ sau sinh để giảm tiếp xúc với máu hoặc dịch cơ thể của mẹ. Khi bé đã được tiêm hai mũi vắc xin HBV đầu tiên, mẹ có thể bắt đầu cho con bú bình thường vì viêm gan virus B không lây truyền qua tiếp xúc da kề da. Nếu núm vú của mẹ bị tổn thương và chảy máu, có thể ngừng cho con bú tạm thời trong thời gian chúng lành lại.
Trung tâm Sản phụ khoa Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, trang thiết bị máy móc tiên tiến. Phòng khám, phòng sinh, phòng phẫu thuật, phòng hậu phẫu được vô trùng tuyệt đối, ngăn chặn sự tấn công và lây nhiễm của vi khuẩn có hại.
Các thai phụ có nguy cơ lây nhiễm virus viêm gan B cao được theo dõi sát sao tải lượng virus (HBV-DNA), chức năng gan định kỳ và có sự phối hợp chặt chẽ với chuyên khoa Tiêu hóa – Gan mật để sớm phát hiện các dấu hiệu bất thường, can thiệp và điều trị kịp thời, hiệu quả. Dựa trên kết quả xét nghiệm và tình trạng sức khỏe của mẹ, đội ngũ chuyên gia, bác sĩ đầu ngành của bệnh viện sẽ hội chẩn để đưa ra phác đồ điều trị phù hợp, nhằm giảm thiểu tối đa nồng độ virus trong máu mẹ, giảm nguy cơ lây truyền dọc từ mẹ sang con.
Trước khi quyết định mang thai, cặp vợ chồng bị viêm gan virus B nên đi khám sức khỏe tổng quát và tư vấn tiền hôn nhân, thai kỳ. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng bệnh của người mắc bệnh, tư vấn về nguy cơ lây nhiễm và hướng dẫn các biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Người bệnh cần xét nghiệm HBV DNA, HBeAg và đánh giá chức năng gan (ALT, AST) nhằm xác định mức độ hoạt động của virus cũng như tình trạng tổn thương gan. Dựa trên kết quả, bác sĩ sẽ quyết định có cần điều trị bằng thuốc kháng virus trước thai kỳ hay không để hạn chế nguy cơ lây truyền cho con.
Người bị viêm gan B có sinh con được không? Có mang thai được không? Khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai nhiễm bệnh thì vẫn có thể sinh con được. Tuy nhiên, các cặp vợ chồng cần phải thăm khám sàng lọc để được đánh giá tải lượng virus và theo dõi chức năng gan trước, trong thai kỳ. Bằng cách dùng thuốc kháng virus an toàn, tiêm phòng đầy đủ cho trẻ sơ sinh bằng vắc xin và huyết thanh kháng HBV trong 24 giờ đầu sau sinh, nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con có thể giảm xuống mức rất thấp.