Sự kết hợp của các yếu tố viêm gan B mãn tính, viêm gan C mãn tính và uống nhiều rượu ở nam giới khiến ung thư gan trở thành nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư ở Việt Nam. Trên thế giới, các loại bệnh về gan đã cướp đi sinh mạng của khoảng 2 triệu người, chiếm 4% tổng số tử vong hàng năm. Phần lớn các trường hợp tử vong liên quan đến bệnh xơ gan và một tỷ lệ nhỏ trong số đó là do suy gan cấp tính. Tìm hiểu tổng quan các bệnh về gan thường gặp có thể hữu ích cho việc phòng ngừa hoặc điều trị.
Bệnh về gan phức tạp, ảnh hưởng đến gan, cơ quan quan trọng nằm phía dưới xương sườn bên phải của bụng và nặng khoảng 1,8 kg. Gan làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn, loại bỏ chất thải, chuyển hóa và sản xuất các chất cần thiết cho cơ thể. Các bệnh về gan xuất phát từ nhiều nguyên nhân do di truyền, tác động từ virus, nhiễm sán, lạm dụng rượu và mắc các bệnh lý tiềm ẩn (tim mạch, béo phì).(1)
Bệnh về gan phát triển theo nhiều cơ chế, cụ thể do tổn thương DNA, thường gặp như nhiễm virus viêm gan B hoặc C, uống nhiều rượu, béo phì. Ví dụ, virus viêm gan B và C gây viêm gan và tăng tổn thương DNA dẫn đến đột biến và thay đổi ngoài gen góp phần vào việc phát triển bệnh về gan.
Ngoài ra, việc uống rượu quá mức làm tích tụ acetaldehyde, chất gây tổn thương DNA và stress oxy hóa khiến gan bị tổn thương và tăng nguy cơ ung thư. Bên cạnh đó, béo phì làm sản xuất các cytokine gây viêm và thay đổi axit trong mật, cả hai đều dễ gây viêm và ung thư gan.
Nhiễm virus là một nguyên nhân quan trọng gây bệnh về gan, trong đó virus viêm gan B và C đóng vai trò chính. Những loại virus này có thể được lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ và gây ra nhiều hậu quả sức khỏe nghiêm trọng.
Nhiễm opisthorchis viverrini (sán lá gan) có thể gây viêm gan, áp xe gan và viêm đường mật.
Cuối cùng, các chất gây ô nhiễm không khí cũng gây hại cho gan. Chúng gây viêm gan và ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa lipid dẫn đến bệnh về gan nhiễm mỡ và các vấn đề sức khỏe liên quan khác.
Có nhiều loại bệnh gan nhưng nhiên phổ biến vẫn là:
Gan nhiễm mỡ là tình trạng chất béo tích tụ trong gan, phân loại thành 2 loại chính: (2)
Một nghiên cứu vào năm 2017 cho thấy khoảng 25% – 30% dân số Mỹ và châu u bị ảnh hưởng bởi NAFLD.
Men gan là một loạt enzyme hỗ trợ phản ứng hóa học trong gan, thường bao gồm alanine transaminase (ALT), aspartate transaminase (AST), phosphatase kiềm (ALP), và gamma-glutamyl transferase (GGT). Khi xét nghiệm men gan, người ta chú trọng đến ALT và AST. (3)
Nguyên nhân men gan tăng cao đa dạng, trong đó bệnh về gan nhiễm mỡ là phổ biến nhất và xuất hiện ở người mắc hội chứng chuyển hóa.
Hội chứng chuyển hóa làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim dẫn đến men gan cao. Các triệu chứng thường thấy như đường huyết cao, huyết áp cao, thừa cân và mỡ máu cao.
Ngoài ra, các bệnh lý khác như viêm gan tự miễn, bệnh celiac, nhiễm virus Epstein-Barr, ung thư gan và tác dụng phụ trên gan của thuốc cũng gây tăng men gan.
Men gan thấp là tình trạng chỉ số men gan ở mức thấp hoặc giảm nhiều so với trước đó, phản ánh sự suy giảm hoạt động của các tế bào gan hoặc bệnh về gan giai đoạn cuối. Mặc dù không có một mức giới hạn chung nhưng các mức ALT dưới 10 hoặc 7 được xem là men gan thấp.(4)
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ALT dưới 5 U/L tăng nguy cơ tử vong ở người cao tuổi. Ngoài ra, men gan ALT thấp cũng có thể là dấu hiệu cho thấy cơ thể đang bị thiếu vitamin B6.
Viêm gan do virus là tình trạng viêm nhiễm virus ở gan, phần lớn các loại này do siêu vi dễ lây lan.
Có 5 loại viêm gan chính:
Viêm gan tự miễn là tình trạng viêm ở gan do hệ thống miễn dịch nhầm lẫn, sản xuất kháng thể tấn công các tế bào lành mạnh trong gan, tăng nguy cơ gây xơ gan.(5)
Có 2 loại viêm gan tự miễn được phân biệt qua các loại tự kháng thể tìm thấy trong xét nghiệm máu. Mỗi loại tấn công các tế bào khác nhau trong gan:
Nang gan là những túi nhỏ chứa đầy chất lỏng hình thành trong gan, khoảng 5 % – 10% dân số mắc phải. Bệnh thường không gây ung thư gan hoặc suy gan. Bệnh về gan triệu chứng thường thấy khi nang phát triển to và gây đau hoặc ảnh hưởng đến chức năng gan.
Có nhiều nguyên nhân gây ra nang gan. Đa số nang gan lành tính và không gây ung thư, hình thành ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Các nghiên cứu cho thấy, chúng có thể phát triển do những khiếm khuyết trong ống mật, đường dẫn chất lỏng hỗ trợ tiêu hóa từ gan.
Các rối loạn di truyền như bệnh về gan đa nang và bệnh thận đa nang góp phần hình thành và phát triển của nhiều loại u nang gan.
Nhiễm sán dây Echinococcus, thường gặp ở cừu phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới có thể là nguyên nhân gây u nang gan. Nhiễm trùng thường xảy ra do tiếp xúc với ký sinh trùng từ nguồn nước hoặc rau bị ô nhiễm có chứa phân của động vật nhiễm bệnh.
Áp xe gan là tình trạng nhiễm trùng ở gan phổ biến thường do vi khuẩn, ký sinh trùng gây ra. Tại các nước phát triển, có rất nhiều trường hợp áp xe gan chứa mủ. Trong khi đó, tại những khu vực khác, áp xe do amip lại thường gặp hơn và trở thành nguyên nhân chính gây bệnh toàn cầu.
Hầu hết các trường hợp áp xe gan sinh mủ bắt nguồn từ nhiễm trùng ổ bụng. Viêm đường mật do sỏi hoặc tắc là nguyên nhân chủ yếu, tiếp theo là viêm túi mật hoặc viêm niêm mạc. Có khoảng 15% trường hợp không thể xác định nguyên nhân được gọi là áp xe ẩn. Suy giảm miễn dịch cũng góp phần hình thành áp xe. Ngoài ra, 15% người trưởng thành mắc áp xe gan có tiền sử tiểu đường.
Áp xe gan sinh mủ có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sỏi mật, ung thư đường mật, viêm túi thừa, bệnh Crohn, nhiễm trùng răng, viêm nội tâm mạc do vi khuẩn hoặc do lan truyền trực trực tiếp từ túi mật, dạ dày tá tràng.
Bệnh gan do rượu xuất phát từ việc uống quá nhiều rượu (nam giới uống trên 15 ly mỗi tuần, phụ nữ trên 8 ly mỗi tuần). Gan, chịu trách nhiệm chuyển hóa ethanol, dễ bị tổn thương sau thời gian dài tiếp xúc với rượu.
Các giai đoạn của bệnh về gan do rượu bao gồm gan nhiễm mỡ, tình trạng chất béo tích tụ trong gan, thường không gây triệu chứng và có khả năng hồi phục. Người uống 4 – 5 ly mỗi ngày trong thời gian dài hoặc uống say (4 – 5 ly trong 2 giờ) có thể phát triển bệnh này. Khoảng 90% người nghiện rượu nặng sẽ mắc bệnh về gan nhiễm mỡ.
Viêm gan do rượu xảy ra khi gan bị viêm và tổn thương dẫn đến các triệu chứng như sốt, vàng da, suy dinh dưỡng và tụ dịch. Chỉ 20% – 40% người uống rượu nhiều tiến triển thành viêm gan.
Xơ gan do rượu là giai đoạn nặng nhất của bệnh về gan do rượu. Khi gan tạo ra sẹo và mất chức năng hoạt động bình thường sẽ xuất hiện các triệu chứng như sụt cân, mệt mỏi, chuột rút, dễ bầm tím và vàng da.
Xơ gan là tình trạng gan bị sẹo do các nguyên nhân gây tổn thương như bệnh về gan do lạm dụng rượu hoặc các bệnh khác ít gặp như xơ nang và giang mai. Trong quá trình cố gắng phục hồi từ tổn thương, gan tạo ra mô sẹo. Tuy nhiên, mô sẹo này càng tăng lên, gan ngày càng suy yếu.
Trong giai đoạn đầu của bệnh, việc điều trị khá hiệu quả nếu nguyên nhân gây ra tình trạng này được xác định và giải quyết kịp thời. Tuy nhiên, nếu không được quản lý đúng cách, xơ gan sẽ tiến triển sang biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến tính mạng.
Suy gan xảy ra khi một phần lớn của gan bị hư hại làm cho gan không còn làm việc hiệu quả. Thông thường, suy gan liên quan đến các bệnh về gan như viêm gan hoặc xơ gan. Ban đầu, người bệnh không xuất hiện bất kỳ triệu chứng nào, theo thời gian các dấu hiệu như vàng da, tiêu chảy, lú lẫn, mệt mỏi, suy nhược và buồn nôn biểu hiện rõ rệt.
Ung thư gan là sự tăng trưởng và phát triển không kiểm soát của các tế bào ung thư ở gan. Bệnh này gây ra hậu quả nghiêm trọng khi khối u trong gan di căn đến các bộ phận khác của cơ thể như phổi, đại tràng hoặc ngực, sau cùng là tử vong.
Có một số dạng ung thư gan phổ biến gồm ung thư biểu mô tế bào gan, là dạng ung thư gan thường gặp, xuất hiện ở những người viêm gan do uống rượu quá nhiều.
Ung thư ống mật tấn công các ống dẫn mật từ gan đến ruột non, thường ảnh hưởng đến người trên 50 tuổi và hiếm gặp.
U tuyến tế bào gan không phổ biến, có nguy cơ phát triển thành ung thư, đặc biệt ở phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai trong thời gian dài.
Bệnh về gan do di truyền có thể xuất hiện khi các bệnh này được truyền qua gen trong gia đình.
Bệnh nhiễm sắc tố sắt xảy ra khi gan, tim hoặc cơ quan khác tích tụ lượng sắt dư thừa từ thức ăn, gây ra những bệnh về gan, tim.
Chứng tăng oxalate máu diễn ra khi có quá nhiều chất hóa học là oxalate trong máu. Lúc này, gan sản xuất oxalate dư thừa do đột biến gen, gây ra sỏi thận dễ dẫn đến suy thận. Khi thận suy yếu, oxalate có thể tích tụ ở các cơ quan khác, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe liên quan.
Bệnh Wilson xảy ra khi lượng đồng tích tụ trong gan và các cơ quan khác. Bệnh bắt đầu biểu hiện từ 6 – 35 tuổi, thường gặp ở tuổi thiếu niên. Bệnh này không chỉ ảnh hưởng đến gan mà còn gây ra các vấn đề thần kinh.
Thiếu hụt Alpha-1 antitrypsin là dạng rối loạn liên quan đến chất hóa học ức chế elastase của bạch cầu trung tính, chức năng chính của nó là để bảo vệ phổi khỏi sự hủy diệt mô qua protease, dẫn đến sự gia tăng sự hủy hoại của mô và khí phế thũng.. Bệnh làm cho gan không sản xuất đúng loại hóa chất này, dẫn đến việc tích tụ chất hóa học lỗi và gây ra bệnh về gan.
Bệnh về gan triệu chứng thường không rõ ràng trong thời gian đầu. Nếu bị viêm gan cấp tính, người bệnh xuất hiện các triệu chứng như sốt, đau bụng hoặc buồn nôn. Nếu không được điều trị, bệnh có thể chuyển sang giai đoạn mãn tính và có triệu chứng như đau bụng trên, buồn nôn, chán ăn, cảm giác mệt mỏi, vàng da, báng bụng, phù, xuất huyết…
Khi bệnh tiến triển, cách nhận biết các bệnh về gan ngày một rõ ràng hơn do suy giảm chức năng gan. Các dấu hiệu này gồm vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, phân nhạt, khó tiêu, sụt cân, giảm cơ, hơi thở có mùi, suy giảm nhận thức và ngứa da. Ngoài ra, bệnh còn ảnh hưởng đến máu, hormone, biểu hiện việc móng tay biến dạng, mạch nhện, chấm đỏ trên da, dễ chảy máu và bầm tím hoặc lòng bàn tay đỏ.
Ở giai đoạn nặng, các triệu chứng như tụ dịch, báng bụng và phù nề ở chân, tay và mặt ngày càng rõ ràng. Đối với phụ nữ, sẽ xuất hiện kinh nguyệt không đều và vô sinh, còn ở nam giới là teo tinh hoàn và mô vú phát triển.
Bệnh gan sẽ rất nguy hiểm, mức độ nguy hiểm tăng dần qua các giai đoạn khác nhau:
Bệnh gan thường không lây qua tiếp xúc hàng ngày, nhưng một số bệnh về gan do nhiễm các vi sinh vật có thể lây nhiễm. Chẳng hạn như viêm gan do nhiễm virus, vi khuẩn, ký sinh trùng… có thể lây truyền qua đường máu, nước bẩn hoặc quan hệ tình dục.
Nhiễm trùng liên quan đến bệnh truyền nhiễm khác như thủy đậu cũng có thể gây bệnh về gan, mặc dù rất hiếm.
Để bảo vệ gan khỏi các bệnh, bạn nên:
Ngoài ra, Đại học Stanford gợi ý một số cách phòng ngừa bệnh về gan như:
Các bệnh về gan trong bài viết này của ECO Pharma đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích và dễ hiểu. Điều quan trọng là phải nhận biết sớm các dấu hiệu và triệu chứng của các bệnh về gan thường gặp để có hướng xử lý kịp thời, giảm thiểu rủi ro và bảo vệ sức khỏe gan tốt nhất. Đừng quên, việc thăm khám định kỳ để phòng và điều trị hiệu quả các bệnh về gan.