Ngủ nhiều để bù đắp cho việc thiếu ngủ là bình thường. Nhưng nếu ngủ nhiều vô căn, quá mức cần thiết vào ban ngày có thể là dấu hiệu bất thường về giấc ngủ và sức khỏe. Ngủ nhiều là dấu hiệu của bệnh gì, nguyên nhân do đâu, ECO Pharma mời bạn đọc theo dõi chi tiết ở bài viết sau.

Ngủ đủ giấc giúp cơ thể phục hồi, điều hòa hệ miễn dịch, tim mạch, trao đổi chất, hỗ trợ sự phát triển, trí nhớ và học tập. Nhu cầu ngủ sẽ thay đổi tùy độ tuổi nhưng sẽ ổn định khi đến tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) ở mức khoảng 7 đến 8 tiếng mỗi đêm, chia thành 3 đến 6 chu kỳ, mỗi chu kỳ khoảng 90 phút.(1)
Ngược lại ngủ nhiều được hiểu là ngủ vượt quá nhu cầu thông thường của cơ thể, tức là hơn 9 tiếng mỗi ngày, bất kể là ngủ nhiều có chủ đích hay vô tình ngủ quên. Tình trạng này thường gây ra các triệu chứng như ngủ gà ngủ gật, đau đầu và khó tập trung vào công việc.
Ngủ nhiều được xem là bất thường khi bạn ngủ quá 10 tiếng mỗi ngày thường xuyên. Đi kèm với các triệu chứng như mệt mỏi, buồn ngủ kéo dài dù đã ngủ đủ giấc, khó tập trung, suy giảm trí nhớ, suy giảm khả năng vận động, hoặc thay đổi về tâm trạng, cảm xúc. Ngủ nhiều kéo dài khiến bạn không thể hoàn thành công việc hàng ngày, gặp khó khăn trong giao tiếp, hoặc làm giảm chất lượng sống.
Ngủ nhiều là dấu hiệu gì? Ngủ nhiều vào ban ngày mà không phải do thiếu ngủ có thể báo hiệu sức khỏe của bạn có gì đó không ổn. Dưới đây là một số tình trạng sức khỏe mà việc ngủ quá nhiều có thể báo hiệu:
Nếu bạn thường xuyên buồn ngủ quá mức vào ban ngày, cáu kỉnh dù đã ngủ đủ hoặc ngủ nhiều hơn 9 tiếng thì đây là dấu hiệu của hội chứng ngủ nhiều. Tình trạng này khiến người bệnh giảm sự tỉnh táo, lo lắng, khó tập trung trong công việc, học tập, giao tiếp xã hội và tăng nguy cơ tai nạn.
Hội chứng ngủ nhiều phổ biến hơn ở phụ nữ và thường khởi phát trong độ tuổi vị thành niên hay thanh niên (trung bình từ 17 – 24 tuổi). Mặc dù các nhà khoa học chưa xác định được nguyên nhân của hội chứng này nhưng họ lại đưa ra một giả thuyết. Ví dụ ngủ nhiều có thể do mất cân bằng các chất dẫn truyền thần kinh (như hypocretin/orexin, dopamine, histamine, serotonin và GABA);\ hoặc cũng có thể do di truyền.(2)
Theo một báo cáo trên Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH), có 38% số người mắc chứng ngủ nhiều vô căn có người thân trong gia đình cũng gặp tình trạng này. Ngoài ra, một số gen liên quan đến đồng hồ sinh học của cơ thể cũng có thể hoạt động khác biệt ở những người mắc hội chứng ngủ nhiều.
Xem thêm: Người già ngủ nhiều có tốt không
Ngủ nhiều hơn bình thường có thể là dấu hiệu của chứng ngủ rũ, một rối loạn giấc ngủ ảnh hưởng đến khoảng 1/2000 người ở Mỹ. Có ba loại chứng ngủ rũ nhưng chúng đều có đặc trưng chung là người bệnh cảm thấy buồn ngủ quá mức vào ban ngày cho dù đã ngủ đủ giấc; những cơn buồn ngủ không thể cưỡng lại, kéo dài vài phút. Các cơn buồn ngủ có thể đi kèm theo mất trương lực cơ (cataplexy) gây mất đột ngột trương lực cơ khi ngủ gật.

Ngủ nhiều là dấu hiệu của bệnh gì? Có thể là dấu hiệu của chứng ngưng thở khi ngủ. Đây là một rối loạn hô hấp phổ biến trong giấc ngủ, gây gián đoạn thở vào ban đêm ít nhất 30 triệu người Mỹ. Người bệnh thường ngáy to và thức giấc ban đêm trong tình trạng ngạt thở hoặc thở hổn hển.
Có hai loại ngưng thở khi ngủ là ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (OSA) xảy ra khi mô mềm chặn đường thở; ngưng thở trung ương khi ngủ (CSA) xảy ra khi não bộ tạm bộ ngưng gửi tín hiệu thở. Người bệnh mắc chứng này thường cảm thấy buồn ngủ và mệt mỏi quá mức vào ban ngày, kèm theo triệu chứng đau đầu vào buổi sáng và khô miệng.
Hội chứng mệt mỏi mạn tính (Chronic fatigue syndrome – CFS/ ME) còn gọi là viêm não tủy hoặc bệnh không dung nạp gắng sức toàn thân (SEID) – một bệnh mãn tính nghiêm trọng gây đau và mệt mỏi cực độ. Ước tính có khoảng 3,3 triệu người Mỹ mắc bệnh nhưng phần lớn chưa được chẩn đoán. Phụ nữ có nguy cơ mắc ME/CFS cao gấp hai đến bốn lần nam giới theo Văn phòng Sức khỏe Phụ Nữ Mỹ (Office on Women’s Health – OWH). Ngoài ra, dù ít phổ biến hơn nhưng bệnh cũng có thể xuất hiện ở trẻ em.
Đặc trưng của bệnh là tình trạng mệt mỏi cùng cực kéo dài không thuyên giảm dù đã nghỉ ngơi. Mặc dù người bệnh thường cảm thấy buồn ngủ nghiêm trọng và có xu hướng ngủ nhiều hơn bình thường nhưng giấc ngủ của họ lại kém chất lượng. Các biểu hiện phổ biến là không cảm thấy sảng khoái sau khi ngủ dù đã ngủ đủ số giờ, mất ngủ, giấc ngủ không sâu và thường xuyên bị gián đoạn.(3)
Ngủ nhiều hơn bình thường có thể là biểu hiện của hội chứng chân không yên. Đây là một rối loạn vận động có liên quan đến giấc ngủ với khoảng 15% người mắc bệnh nhưng chỉ khoảng 2% – 3% người bệnh có triệu chứng.
Người bệnh thường có cảm giác khó chịu (ngứa, đau nhói) ở chân, thôi thúc phải cử động ngay cả khi ngủ. Đôi khi, cảm giác khó chịu có thể xuất hiện ở tay hoặc bộ phận khác và chỉ giảm khi cử động. Triệu chứng của bệnh thường nhẹ vào buổi sáng và nặng hơn vào buổi tối, gây khó ngủ.
Thiếu máu xảy ra khi cơ thể không tạo đủ hồng cầu khỏe mạnh để cung cấp oxy cho các mô. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các vấn đề về giấc ngủ như mất ngủ, thời gian ngủ ngắn có liên quan đến tình trạng thiếu máu. Cơ chế hoạt động của điều này được hiểu là thiếu máu làm giảm lượng oxy cung cấp lên não dẫn đến làm suy giảm chức năng nhận thức và gây ra vấn đề giấc ngủ.
Tim sẽ đập nhanh hơn để bù đắp lượng oxy thiếu hụt, khiến cơ thể khó thư giãn và đi vào giấc ngủ. Ngoài ra, người ta còn cho rằng các biến thể gen MEIS1 có thể liên quan đến cả thiếu sắt và mất ngủ.
Thiếu máu do thiếu sắt cũng có thể gây ra sự thay đổi trong não, ảnh hưởng đến chu kỳ giấc ngủ. Đặc biệt, sự mệt mỏi do thiếu máu có thể khiến bạn ngủ quá nhiều vào ban ngày, điều này làm suy giảm khả năng ngủ sâu vào ban đêm.
Phụ nữ mang thai thường cần ngủ nhiều hơn, từ 8 – 10 giờ mỗi đêm thay vì 7 – 9 tiếng ở người trưởng thành. Điều này là do những thay đổi sinh lý trong cơ thể và nhu cầu phát triển của thai nhi. Cảm giác mệt mỏi, buồn ngủ và ngủ nhiều hơn bình thường rất phổ biến ở phụ nữ mang thai, đặc biệt là trong tam cá nguyệt thứ nhất và thứ ba.
Ở tam cá nguyệt đầu, sự gia tăng thể tích máu và nồng độ hormone progesterone là nguyên nhân chính gây ra cảm giác buồn ngủ. Đến tam cá nguyệt thứ ba, trọng lượng của thai nhi tăng thêm đi kèm với những lo lắng về quá trình chuyển dạ khiến bà bầu mong muốn được nghỉ ngơi nhiều hơn.
Mặc dù nhu cầu ngủ cao nhưng chất lượng giấc ngủ của bà bầu thường kém vì dễ bị gián đoạn, khoảng 50% phụ nữ mang thai bị mất ngủ. Sự thay đổi nội tiết tố, thể chất và chất lượng ngủ kém làm tăng cảm giác mệt mỏi. Những khó chịu liên quan đến thai kỳ, cùng với mức độ căng thẳng và lo lắng làm tăng thêm những đêm trằn trọc, khiến bà bầu mệt mỏi hơn vào ban ngày và thèm được ngủ thêm.

Ngủ nhiều là dấu hiệu gì? Ngủ quá nhiều hơn mức bình thường có thể là dấu hiệu cảnh báo của bệnh suy giáp. Đây là tình trạng tuyến giáp hoạt động kém, không sản xuất đủ hai hormone (thyroxine và triiodothyronine) cần thiết cho quá trình trao đổi chất và năng lượng của thơ thể. Ước tính có gần 5 trong số 100 người Mỹ từ 12 tuổi trở lên mắc bệnh suy giáp.
Khi bị suy giáp, cơ thể thiếu hụt hormone tuyến giáp gây mệt mỏi nghiêm trọng và buồn ngủ quá mức. Tình trạng này có thể tiến triển thành chứng ngủ nhiều, người bệnh trở nên thèm ngủ quá mức hoặc dễ ngủ thiếp đi liên tục trong ngày.
Sự thiếu hụt hormone do suy giáp còn gây khó ngủ hoặc làm giấc ngủ bị gián đoạn vào ban đêm. Ngoài ra, suy giáp còn làm tăng nguy cơ mắc ngưng thở khi ngủ, hội chứng chân không yên (RLS); người bệnh cảm thấy khó khăn khi chịu lạnh vào ban đêm, đau khớp hoặc cơ thường xuyên; rối loạn “đồng hồ sinh học” tự nhiên của cơ thể. Tất cả các yếu tố này khiến người bệnh bị mất ngủ vào ban đêm, gây ngủ nhiều quá mức vào ngày hôm sau.
Người thừa cân và béo phì thường có xu hướng buồn ngủ quá mức và mệt mỏi vào ban ngày dù đã ngủ đủ giấc. Tình trạng này có thể do béo phì làm thay đổi quá trình trao đổi chất và chu kỳ ngủ – thức hoặc áp lực vật lý từ cân nặng. Một nghiên cứu năm 2017 chỉ ra rằng buồn ngủ quá nhiều vào ban ngày ở người béo phì có thể do tác động viêm nhiễm từ cytokine cao và rối loạn trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận.
Ngoài ra, thừa cân và béo phì cũng làm tăng nguy cơ mắc và trầm trọng thêm nhiều rối loạn giấc ngủ gây ngủ nhiều vào ban ngày như ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA), bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), trầm cảm, hen suyễn, viêm xương khớp.
Không chỉ là triệu chứng, ngược lại ngủ nhiều hơn 8 tiếng mỗi ngày cũng làm tăng nguy cơ tăng cân và béo phì. Cụ thể là người ngủ 9 – 10 tiếng mỗi đêm có nguy cơ béo phì cao hơn 21% trong vòng 6 năm so với nhóm ngủ 7 – 8 tiếng. Những người ngủ nhiều cũng thường có BMI cao dễ bị thừa cân (BMI > 25) hoặc béo phì (BMI > 30) hơn so với người ngủ đủ giấc.
Người bệnh tiểu đường thường buồn ngủ quá mức vào ban ngày do ảnh hưởng của việc thay đổi đường huyết gây mất ngủ vào ban đêm. Cụ thể là đường huyết cao gây đi tiểu đêm nhiều, khát nước và đau đầu làm gián đoạn giấc ngủ; đường huyết thấp gây ác mộng, đổ mồ hôi. Người bệnh tiểu đường cũng có nguy cơ cao mắc hội chứng chân không yên (RLS), ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA), làm gián giấc ngủ sâu, dẫn đến mệt mỏi dai dẳng ban ngày.
Ngược lại, giấc ngủ kém cũng ảnh hưởng đến nồng độ insulin và cortisol, làm tăng đường huyết và kháng insulin. Hơn nữa, ngủ hơn 8 tiếng mỗi đêm đều có liên quan đến nguy cơ béo phì, tiểu đường và biến chứng tim mạch khiến người bệnh luôn trong trạng thái mệt mỏi và thèm ngủ.
Suy tim sung huyết (CHF) là dạng suy tim khiến tim bơm máu kém hiệu quả, gây ứ đọng máu và dịch tụ. Người mắc bệnh thường buồn ngủ quá mức hoặc buồn ngủ dai dẳng suốt cả ngày do các triệu chứng như khó thở, mệt mỏi cùng cực.
Khi tim không đủ sức bơm máu đáp ứng nhu cầu oxy của cơ thể thì máu sẽ được ưu tiên đến các cơ quan thiết yếu như tim và não, giảm lưu lượng máu đến các cơ khác. Chính điều này gây ra một số vấn đề như yếu chân khi đi bộ, khó thở khi vận động và buồn ngủ sau khi ăn. Ngoài ra, một số thuốc tim mạch (ví dụ như thuốc chẹn beta) cũng gây mệt mỏi, làm trầm trọng thêm tình trạng ngủ nhiều ở người bệnh suy tiêm sung huyết.

Ngủ quá nhiều hay buồn ngủ ban ngày quá mức (EDS) là triệu chứng phổ biến và là yếu tố nguy cơ độc lập ở người sống sót sau đột quỵ. Tình trạng này làm giảm chất lượng sống, chức năng nhận thức và hiệu suất hoạt động ban ngày của người bệnh.
Các yếu tố góp phần gây ra EDS bao gồm chính tổn thương đột quỵ, rối loạn hô hấp khi ngủ, hội chứng Robin Hood đảo ngược và trầm cảm. Ngủ nhiều ở bệnh nhân đột quỵ có thể dẫn đến những kết cục nghiêm trọng và tiêu cực. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây còn cho thấy ngủ quá nhiều (hơn 7 giờ mỗi đêm) hoặc quá ít đều làm tăng nguy cơ mắc các biến cố tim mạch, bao gồm cả đột quỵ.
Theo Quỹ Giấc ngủ Quốc Gia Mỹ, có khoảng 20% dân số gặp chứng ngủ nhiều, nghĩa là cảm thấy buồn ngủ liên tục dù đã ngủ đủ giấc. Nghiên cứu chỉ ra rằng ngủ quá nhiều thường là triệu chứng của các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn, chứ không phải một rối loạn độc lập. Các nguyên nhân gây ngủ nhiều được chia thành hai loại chính là ngủ nhiều nguyên phát (không rõ nguyên nhân) và thứ phát (do bệnh lý khác gây ra).
Ngủ nhiều nguyên phát là tình trạng buồn ngủ liên tục, quá mức không phải do một bệnh lý nào gây ra. Có bốn dạng chính của tình trạng này:
Ngủ nhiều thứ phát (hay còn gọi là ngủ rũ thứ phát) là tình trạng buồn ngủ quá mức vào ban ngày do một nguyên nhân tiềm ẩn rõ ràng. Nguyên nhân ngủ quá nhiều có thể xuất phát từ các vấn đề sức khỏe thể chất hoặc tinh thần như bệnh Parkinson, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA), suy giáp, đau nửa đầu, thiếu hụt vitamin, loét dạ dày tá tràng, động kinh, viêm não, bệnh đa xơ cứng, béo phì, teo hệ thống đa cơ quan; bệnh loạn dưỡng cơ myotonic, rối loạn tâm trạng như trầm cảm.
Hoặc do dùng thuốc điều trị như thuốc an thần (ví dụ như như benzodiazepin, barbiturat, melatonin) và các thuốc hỗ trợ giấc ngủ khác; thuốc huyết áp; thuốc chống động kinh; thuốc điều trị bệnh Parkinson; thuốc giãn cơ xương; thuốc phiện (hydrocodone, oxycodone); cần sa; rượu bia.
Ngủ nhiều còn có thể do người bệnh đang cai các chất kích thích, ví dụ như thuốc điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Ngoài ra, ngủ không đủ giấc (do thói quen sinh hoạt không tốt, không tập thể dục hoặc uống caffeine gần giờ ngủ) cũng là một nguyên nhân ngủ nhiều thứ phát.
Ngủ nhiều hay buồn ngủ quá mức vào ban ngày (hypersomnia) là tình trạng một người cảm thấy buồn ngủ liên tục, dai dẳng và không thể kiểm soát. Theo Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ Mỹ (NINDS), chứng ngủ nhiều khác với cảm giác mệt mỏi thông thường. Bởi vì nó có thể khiến người bệnh ngủ quên vào những thời điểm không thích hợp, làm tăng nguy cơ tai nạn trong công việc, lái xe và ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng sống.
Dưới đây là các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của chứng ngủ nhiều mà bạn nên biết:

Như đã đề cập ngủ nhiều tức là ngủ quá 9 tiếng mỗi ngày (bất kể là do ngủ quên hay nhu cầu ngủ nhiều thực sự) thường gây ra các triệu chứng ngủ gà ngủ gật vào ban ngày, đau đầu và khó tập trung cho công việc. Cho dù là ngủ nhiều nguyên phát hay thứ phát thì tình trạng này đều ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều khía cạnh của sức khỏe.
Ngủ nhiều làm trầm trọng thêm tình trạng viêm trong cơ thể, giảm chức năng miễn dịch gây ra các bệnh lý mãn tính. Nếu ngủ quá nhiều trong thời gian ngắn, người bệnh có thể bị lo lắng tạm thời, lú lẫn và thiếu năng lượng. Nhưng ngủ quá nhiều thường xuyên có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý như béo phì, bệnh tim mạch vành, bệnh tiểu đường, đột quỵ
Một nghiên cứu tổng hợp do các nhà khoa học tại Đại học Keele (Vương quốc Anh) công bố trên Journal of the American Heart Association đã phát hiện ra mỗi quan hệ “hình chữ J” giữa thời lượng ngủ và nguy cơ tử vong, cũng như các biến cố tim mạch. Mối quan hệ này cho thấy ngủ quá 7 – 8 giờ mỗi đêm có thể liên quan đến mức độ rủi ro sức khỏe cao hơn.
Ví dụ, ngủ 9 giờ tăng 14% nguy cơ tử vong, trong khi ngủ 10 giờ tăng 30% nguy cơ. Điều này một lần nữa khẳng định ngủ nhiều không hề tốt cho sức khỏe mà nó là một dấu hiệu cảnh báo cho nhiều bệnh lý sức khỏe cần được quan tâm.
Người bệnh cần đi thăm khámngay nếu gặp phải các triệu chứng ngủ nhiều (như đề cập ở phần trên) kéo dài, gây ảnh hưởng đến chất lượng sống (công việc, học tập, các mối quan hệ xã hội). Đặc biệt là nên đi khám ngay nếu ngủ nhiều đi kèm với các dấu hiệu như sụt cân/tăng cân không rõ nguyên nhân, thay đổi tâm trạng nghiêm trọng, khó thở về đêm, đau đớn không rõ nguyên nhân, hoặc các triệu chứng gợi ý các bệnh lý tiềm ẩn như suy giáp, tiểu đường, tim mạch.
Để chẩn đoán chứng ngủ nhiều, bước đầu tiên bác sĩ sẽ tiến hành khai thác thông tin từ người bệnh (ví dụ như triệu chứng, tiền sử bệnh của người bệnh và gia đình, câu hỏi về lối sống, thói quen ăn uống, các loại thuốc đang dùng).
Đây là bước giúp bác sĩ sàng lọc và quản lý rối loạn giấc ngủ. Dựa trên các triệu chứng cụ thể mà bác sĩ có thể chỉ định thực hiện các kiểm tra cận lâm sàng khác nhau để xác định nguyên nhân.
Các phương pháp chẩn đoán phổ biến bao gồm:
Nếu các xét nghiệm này không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng cho tình trạng buồn ngủ quá mức mặc dù người bệnh đã ngủ đủ giấc thì sẽ được chẩn đoán mắc chứng ngủ nhiều vô căn. Đây là một chẩn đoán loại trừ, khi không có bệnh lý nào khác giải thích được tình trạng này.
Điều trị chứng ngủ nhiều có thể khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân là thứ phát hay là nguyên phát. Vì vậy, người bệnh nên đi khám tại cơ sở y tế để xác định được nguyên nhân ngủ nhiều từ đó, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị phù hợp và hiệu quả.
Nếu được chẩn đoán chứng ngủ nhiều nguyên phát, việc điều trị tập trung vào việc dùng thuốc để cải thiện giấc ngủ ban đêm hoặc duy trì sự tỉnh táo ban ngày. Các thuốc giúp tỉnh táo ban đầu thường là modafinil, armodafinil, pitolisant hoặc solriamfetol. Nếu cần, bác sĩ có thể kê đơn thuốc kích thích thần kinh mạnh hơn, natri oxybate, flumazenil, hoặc clarithromycin. Thuốc an thần (như diazepam, lorazepam) hoặc bổ sung melatonin cũng có thể được dùng để cải thiện giấc ngủ.
Ngược lại, nếu được chẩn đoán chứng ngủ nhiều thứ phát, hướng điều trị tập trung vào việc giải quyết nguyên nhân cụ thể. Việc dùng thuốc điều trị sẽ chuyên biệt cho từng bệnh lý như thuốc dị ứng hoặc cảm lạnh. Đối với các trường hợp như ngưng thở khi ngủ, bác sĩ có thể chỉ định sử dụng thiết bị hỗ trợ hô hấp như máy thở áp lực dương liên tục (CPAP) hoặc phẫu thuật để duy trì đường thở thông thoáng. Nếu nguyên nhân là do nghiến răng khi ngủ thì bác sĩ sẽ khuyến nghị người bệnh dùng máng nhai.

Không phải lúc nào cũng có thể phòng ngừa được hoàn toàn chứng ngủ nhiều, đặc biệt là đối với nguyên nhân nguyên phát. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể kiểm soát và giảm thiểu chứng ngủ nhiều bằng cách cải thiện chất lượng giấc ngủ và duy trì lối sống lành mạnh.
Người bệnh cần điều chỉnh thói quen sinh hoạt và giấc ngủ tốt. Nên duy trì thói quen đi ngủ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày, kể cả vào cuối tuần giúp cơ thể thiết lập đồng hồ sinh học ổn định. Nếu cần ngủ trưa thì chỉ ngủ giấc ngắn khoảng 20 – 30 phút và không ngủ trưa sau 3 giờ chiều; cần hạn chế uống các loại đồ uống chứa caffeine, rượu bia và hút thuốc lá trong khoảng 2 – 4 giờ trước khi ngủ; tránh ăn no vào buổi tối và uống quá nhiều nước gần giờ đi ngủ.
Khoảng một giờ trước khi ngủ, bạn hãy thực hiện các hoạt động thư giãn nhẹ nhàng như uống trà thảo mộc (trà hoa cúc), thiền, nghe nhạc du dương, giãn cơ nhẹ nhàng hoặc viết nhật ký để giảm căng thẳng. Nếu bạn khó thức dậy sau giấc ngủ ban đêm thì có thể dùng báo thức ánh sáng mô phỏng bình minh để giúp cơ thể thức dậy tự nhiên hơn, tránh cảm giác khó chịu và buồn ngủ.
Để tránh ngủ nhiều vào ban ngày bạn nên chủ động cải thiện chất lượng ngủ vào ban đêm bằng cách tạo môi trường ngủ lý tưởng; Nên để phòng ngủ tối, yên tĩnh và mát mẻ, có thể dùng rèm cửa hoặc bịt mắt nếu phòng quá sáng; dùng nút bịt tai hoặc máy tạo tiếng ồn trắng nếu môi trường ồn ào; duy trì nhiệt nhiệt độ phòng thoải mái, nệm êm ái.
Bạn cần tránh làm việc, xem TV, hay sử dụng các thiết bị điện tử khác trên giường; tắt hoàn toàn và loại bỏ chúng ra khỏi phòng ngủ ít nhất 30 phút đến một giờ trước khi đi ngủ, vì ánh sáng xanh có thể cản trở sản xuất melatonin.
Ngoài ra, chế độ ăn uống đủ dưỡng chất cần thiết cho não và cơ thể cũng giúp bạn ngủ ngon hơn và tránh ngủ quá nhiều vào ban ngày. Vì vậy hãy bổ sung đủ nhóm chất như canxi, magie, và các vitamin A, C, D, E, K vì thiếu hụt có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn giấc ngủ kể cả hội chứng ngủ nhiều.
Cuối cùng, bạn nên bổ sung tinh chất Ginkgo Biloba, Anthocyanin và Pterostilbene giúp ổn định thần kinh – nội tiết để bảo vệ giấc ngủ. Các tinh chất này đã được chứng minh hỗ trợ tăng cường chức năng não bộ, khả năng tập trung, ghi nhớ, ngủ ngon giấc và hỗ trợ phòng ngừa các bệnh lý liên quan đến não bộ và thần kinh trung ương. Chúng an toàn để dùng kéo dài cho người từ 12 tuổi.

Bên cạnh thắc mắc ngủ nhiều là dấu hiệu của bệnh gì thì còn có nhiều thắc mắc khác về chứng ngủ nhiều cần được giải đáp. Dưới đây là một số thắc mắc phổ biến kèm giải đáp có thể hữu ích cho người bệnh.
Ngủ quá nhiều có thể gây tăng cân và tăng nguy cơ béo phì. Nghiên cứu chỉ ra rằng, những người ngủ chín hoặc 10 tiếng mỗi đêm có khả năng bị béo phì cao hơn tới 21% trong vòng sáu năm so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng. Mối liên hệ này vẫn đúng ngay cả khi đã tính đến lượng calo nạp vào và mức độ tập thể dục của mỗi người.
Ngủ quá nhiều có thể gây suy giảm trí nhớ và hiệu suất nhận thức. Một nghiên cứu lớn của Đại học UCL (Anh) công bố trên Tạp chí Dịch tễ học Quốc tế cho thấy thời lượng giấc ngủ không tối ưu (cả quá ít và quá nhiều) đều tác động tiêu cực đến chức năng não bộ, đặc biệt là trí nhớ thị giác và thời gian phản ứng.
Nghiên cứu phân tích dữ liệu từ gần 400.000 người tham gia chỉ ra rằng ở những người ngủ hơn 9 giờ mỗi đêm mắc nhiều lỗi hơn (9% cho mỗi giờ ngủ thêm) trong các bài kiểm tra trí nhớ thị giác so với những người ngủ 7 – 9 giờ. Thậm chí, trung bình cứ mỗi giờ ngủ thêm, khả năng ghi nhớ và phản ứng của người tham gia đều bị suy giảm.
Cần nhắc lại rằng ngủ quá nhiều nhưng vẫn cảm thấy mệt mỏi không phải bệnh độc lập mà là triệu chứng của nhiều vấn đề sức khỏe tiềm ẩn đã được giải đáp ở phần trên bài viết. Các nguyên nhân ngủ nhiều gồm các rối loạn giấc ngủ như ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, bệnh ngủ rũ, hoặc ngủ nhiều vô căn; các bệnh lý mạn tính như tiểu đường, suy giáp, thiếu máu, bệnh tim mạch (đặc biệt là suy tim sung huyết), và trầm cảm; tác dụng phụ của thuốc.
Ngủ nhiều không phải bệnh độc lập mà là một triệu chứng cảnh báo của nhiều vấn đề sức khỏe tiềm ẩn. Ngủ nhiều là dấu hiệu của bệnh gì, ngủ nhiều có thể do các rối loạn giấc ngủ như ngưng thở khi ngủ, bệnh ngủ rũ hoặc ngủ nhiều vô căn. Ngoài ra, nó cũng là dấu hiệu của nhiều bệnh lý mãn tính như tiểu đường, suy giáp, thiếu máu, bệnh tim mạch và trầm cảm.