Viêm tuyến tiền liệt có phải mổ không? Mặc dù không làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt nhưng bệnh có thể tái phát nhiều lần ảnh hưởng đến tinh thần và gây ra nhiều biến chứng. Viêm tiền liệt tuyến điều trị bằng các phương pháp tại chỗ, các trường hợp có biến chứng nghiêm trọng có thể cần phẫu thuật mới giải quyết được. Cùng ECO Pharma tìm hiểu chi tiết hơn ở bài viết sau.
Tuyến tiền liệt chỉ có ở nam giới, nó nằm dưới bàng quang, trước trực tràng và bao quanh niệu đạo. Tuyến này có thể bị viêm cấp tính hoặc mạn tính do vi khuẩn hoặc không do vi khuẩn, thường xảy ra ở độ tuổi 50.
Bệnh thường đặc trưng bởi các triệu chứng như đau ở bụng dưới, bộ phận sinh dục hoặc tầng sinh môn, cơn đau có thể lan đến lưng dưới và một số triệu chứng như buồn tiểu, tiểu đau, tiểu khó, tiểu ra máu, xuất tinh ra máu, đau khi giao hợp, rối loạn cương dương. Do nhiều trường hợp điều trị bằng các phương pháp tại chỗ như thuốc, vật lý trị liệu không khỏi nên nhiều nam giới lo lắng mổ có hết bệnh không?
Bệnh này thường không cần phẫu thuật nhưng trong một số trường hợp hiếm gặp, phẫu thuật có thể được chỉ định giúp giải phóng bàng quang tắc nghẽn, loại bỏ mô sẹo để cải thiện lưu lượng nước tiểu. Để biết rõ hơn khi nào viêm tuyến tiền liệt cần phải mổ, ECO Pharma mời bạn theo dõi tiếp ở phần bên dưới.
Như đã đề cập, phần lớn các trường hợp viêm tiền liệt tuyến không cần phẫu thuật, chỉ định chính là sử dụng các loại thuốc và điều chỉnh lối sống giúp cải thiện các triệu chứng của bệnh. Tuy nhiên có phải mổ không thì chỉ định phẫu thuật vẫn có thể được đưa ra bởi bác sĩ chuyên khoa ở trong một số trường hợp.
Chẳng hạn như:
Tuyến tiền liệt bị viêm mãn tính do vi khuẩn là một bệnh nhiễm trùng tái phát nhiều lần và khó điều trị. Các triệu chứng giống như một dạng viêm tiền liệt tuyến cấp tính do vi khuẩn nhẹ, nhưng chúng kéo dài hơn. Dùng thuốc kháng sinh như fluoroquinolone là liệu pháp phổ biến nhất để điều trị bệnh mạn tính do vi khuẩn (CBP), phẫu thuật thường không được chỉ định.
Tuy nhiên, trong một số tình huống được chọn lọc khi bệnh nhân có các đợt viêm mạn tính cải thiện bằng kháng sinh nhưng sau đó tái phát, cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TURP) hoặc bốc hơi tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TUVP) có thể loại bỏ một ổ nhiễm trùng. Ổ nhiễm trùng này có thể ở dạng sỏi tuyến tiền liệt. (1)
Những viên sỏi này thường có thể nhìn thấy trên siêu âm qua trực tràng. Nghiên cứu cho thấy phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TURP) mang lại hiệu quả đáng kể, với 70% bệnh nhân khỏi bệnh và 15% cải thiện. (2)
Cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để thậm chí còn cho thấy tỷ lệ thành công cao hơn, với 95% bệnh nhân giải quyết hoàn toàn các triệu chứng. Mặc dù những kết quả này đầy hứa hẹn, nhưng cần lưu ý rằng liệu pháp phẫu thuật cho CBP vẫn còn nhiều tranh cãi và cần được nghiên cứu thêm.
Áp xe tuyến tiền liệt là một biến chứng nghiêm trọng thường do viêm tuyến tiền liệt cấp tính do vi khuẩn, hình thành do sự tích tụ mủ cục bộ trong nhu mô tuyến tiền liệt. Nguyên nhân chủ yếu là do trào ngược nước tiểu bị nhiễm trùng vào các ống dẫn tuyến tiền liệt trong quá trình đi tiểu. Người bệnh tiểu đường không kiểm soát tốt, miễn dịch suy yếu là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị áp xe.
Áp xe có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm như nhiễm trùng huyết niệu và sốc nhiễm trùng, thậm chí dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Chẩn đoán viêm tiền liệt tuyến thường được thực hiện thông qua siêu âm qua trực tràng hoặc các phương pháp hình ảnh khác, giúp xác định kích thước và vị trí ổ áp xe.
Phương pháp điều trị áp xe tuyến tiền liệt thường phụ thuộc vào kích thước của áp xe. Áp xe nhỏ (dưới 1cm) thường được điều trị bảo tồn bằng kháng sinh tĩnh mạch, áp xe từ 1cm – 2cm có thể điều trị bảo tồn hoặc phẫu thuật dẫn lưu, và áp xe lớn hơn 2cm thường cần phẫu thuật dẫn lưu.
Phẫu thuật dẫn lưu bao gồm dẫn lưu qua trực tràng dưới hướng dẫn siêu âm, hoặc dẫn lưu qua da tầng sinh môn. Kháng sinh phổ rộng đường tĩnh mạch là liệu pháp chính và việc lựa chọn kháng sinh dựa trên kết quả nuôi cấy và kháng sinh đồ. Theo dõi chặt chẽ bằng hình ảnh là cần thiết để đánh giá đáp ứng điều trị và đảm bảo ổ áp xe được giải quyết hoàn toàn.
Chỉ định việc viêm tuyến tiền liệt có phải mổ không thì phẫu thuật tuyến tiền liệt có thể còn được chỉ định đối với người bệnh bị bí tiểu cấp tính và tắc nghẽn niệu đạo.
Cụ thể, có khoảng 10% nam giới trên 70 tuổi và lên đến 30% nam giới trên 80 tuổi sẽ bị bí tiểu (3). Bí tiểu là tình trạng không thể đi tiểu, hoặc đi tiểu không hết, gây ra sự khó chịu và đau đớn cho người bệnh. Bí tiểu cấp tính là tình trạng không thể đi tiểu đột ngột, gây ra đau đớn và khó chịu dữ dội. Người bệnh có thể chỉ đi tiểu được một lượng nhỏ, vẫn còn lượng nước tiểu tồn đọng trong bàng quang. Lúc này, chỉ định phẫu thuật đặt ống thông tiểu là biện pháp cấp cứu cần thiết để dẫn lưu nước tiểu ra khỏi bàng quang.
Ngoài ra, phẫu thuật đặt ống thông tiểu làm rỗng bàng quang có thể được chỉ định ở người bệnh bị tắc nghẽn niệu đạo. Tình trạng này xảy ra khi tuyến tiền liệt sưng to gây chèn ép niệu đạo, làm giảm hoặc tắc nghẽn hoàn toàn dòng nước tiểu. Phẫu thuật có thể đặt ống thông qua đường niệu đạo (qua dương vật) hoặc qua đường trên xương mu (qua bụng). (4)
Trường hợp không cần phẫu thuật tuyến tiền liệt sẽ phụ thuộc vào loại viêm và mức độ nghiêm trọng, các phương pháp điều trị khác có thể hiệu quả. Mổ tuyến tiền liệt không phải lúc nào cũng là lựa chọn đầu tiên.
Như tình trạng viêm tuyến tiền liệt cấp tính do vi khuẩn, phương pháp điều trị chính là sử dụng thuốc nội khoa như kháng sinh, kháng viêm để diệt vi khuẩn và cải thiện triệu chứng.
Các liệu pháp vật lý trị liệu (bài tập cơ sàn chậu), thuốc giảm đau và thay đổi lối sống (kiểm soát căng thẳng, tập thể dục, chế độ ăn uống) thường được ưu tiên điều trị đối với tình trạng viêm tiền liệt tuyến mạn tính.
Một số phương pháp phẫu thuật phổ biến sau có thể được thực hiện điều trị tiền liệt tuyến bị viêm:
Phẫu thuật dẫn lưu áp xe tuyến tiền liệt là thủ thuật cấp cứu ngoại tiết niệu, giúp giải quyết tình trạng bí tiểu do áp xe tuyến tiền liệt gây ra. Thủ thuật này bao gồm dẫn lưu ổ áp xe tuyến tiền liệt và dẫn lưu bàng quang, giúp loại bỏ mủ và dịch viêm, phục hồi chức năng tiểu tiện.
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản hoặc gây tê tủy sống. Bác sĩ tiến hành mở bụng đường trắng giữa trên xương mu, bộc lộ bàng quang và tuyến tiền liệt, tiến hành dẫn lưu ổ áp xe ngoài phúc mạc. Dịch áp xe sẽ được lấy ra để nuôi cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ, giúp xác định loại vi khuẩn gây bệnh và lựa chọn kháng sinh phù hợp. Tiếp theo, bác sĩ sẽ dẫn lưu bàng quang bằng sonde Pezzer và khâu bàng quang.
Cuối cùng, ổ áp xe sẽ được lau sạch, đặt dẫn lưu và đóng bụng theo lớp giải phẫu. Sau phẫu thuật, người bệnh sẽ được theo dõi sát sao các dấu hiệu sinh tồn như mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở. Đồng thời, theo dõi dẫn lưu ổ mổ và dẫn lưu bàng quang cũng quan trọng để đảm bảo không có biến chứng xảy ra.
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt là thủ thuật ngoại khoa nhằm loại bỏ một phần hoặc toàn bộ tuyến tiền liệt, thường được chỉ định trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt hoặc phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
Có hai phương pháp phẫu thuật chính là phẫu thuật mổ hở và phẫu thuật nội soi. Mổ mở là phương pháp truyền thống, cho phép bác sĩ tiếp cận tổn thương rộng hơn nhưng xâm lấn gây chảy máu nhiều, vết mổ lâu lành, tăng nguy cơ nhiễm trùng và thời gian phục hồi kéo dài. Mổ mở thường chỉ được áp dụng khi phẫu thuật nội soi không khả thi.
Ngược lại, phẫu thuật nội soi tiếp cận tổn thương qua các lỗ tự nhiên hoặc lỗ nhỏ trên cơ thể, giảm thiểu xâm lấn và chảy máu. Bệnh nhân sau phẫu thuật nội soi ít đau hơn, phục hồi nhanh hơn, giảm nguy cơ nhiễm trùng và biến chứng. Hiện nay, hiệu quả của phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt nội soi đã được nâng cao hơn nhờ ứng dụng robot.
Hoặc nếu tình trạng ung thư chưa lan rộng, phẫu thuật bảo tồn thần kinh có thể được thực hiện để giữ lại chức năng cương dương. Hoặc ít phổ biến và chỉ dùng trong các trường hợp đặc biệt là phẫu thuật tầng sinh môn không cho phép bảo tồn thần kinh và khó nạo vét hạch. (5)
Phẫu thuật mở rộng niệu đạo (TURP) thường được chỉ định thực hiện đối với tình trạng tiết niệu do phì đại tuyến tiền liệt gây ra. Khác với các phương pháp phẫu thuật mở, TURP được thực hiện thông qua niệu đạo, sử dụng một dụng cụ gọi là ống soi cắt bỏ (resectoscope). Ống soi này được đưa vào niệu đạo, cho phép bác sĩ phẫu thuật quan sát và loại bỏ mô tuyến tiền liệt thừa đang gây tắc nghẽn dòng nước tiểu.
Quy trình TURP thường kéo dài từ 60 đến 90 phút. Trước khi phẫu thuật, người bệnh sẽ được gây mê toàn thân hoặc gây tê tủy sống để đảm bảo không cảm thấy đau. Một liều kháng sinh cũng được sử dụng để ngăn ngừa nhiễm trùng.
Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ sẽ sử dụng ống soi cắt bỏ để cắt bỏ mô tuyến tiền liệt thừa thành từng mảnh nhỏ, sau đó được đưa vào bàng quang và hút ra ngoài. Sau phẫu thuật, bệnh nhân thường phải nằm viện từ 1 đến 2 ngày và đặt ống thông tiểu trong khoảng 24 đến 48 giờ để giúp dẫn lưu nước tiểu.
Phẫu thuật TURP giúp giảm các triệu chứng khó chịu như tiểu thường xuyên, tiểu gấp, tiểu khó, tiểu ngắt quãng, tiểu đêm, và cảm giác tiểu không hết. Ngoài ra, nó cũng được chỉ định để điều trị hoặc ngăn ngừa các biến chứng như nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát, tổn thương thận hoặc bàng quang, bí tiểu, sỏi bàng quang, và tiểu ra máu.
Đối với thắc mắc viêm tuyến tiền liệt có phải mổ không thì phẫu thuật sẽ được xem xét khi các phương pháp điều trị nội khoa bằng thuốc, thay đổi lối sống, không hiệu quả. Hoặc khi người bệnh gặp phải các biến chứng nghiêm trọng như bí tiểu tái phát, nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát, sỏi bàng quang, suy thận do tắc nghẽn đường tiểu, hoặc tiểu ra máu tái phát. Chỉ định phẫu thuật sẽ do bác sĩ chuyên khoa đưa ra sau khi đánh giá kỹ lưỡng tình trạng của bệnh nhân.